Search This Blog

Monday, February 15, 2010

Mấy Suy Nghĩ Rời Trong Đêm Giao Thừa Năm Dần (2010)

nguyễn văn hóa

1. Nạn “Hoàng họa” (Yellow Peril)

Một thời gian ngắn sau khi chế độ miền Nam sụp đổ, cố học giả Nguyễn Hiến Lê cho ra đời thêm vài cuốn sách mới, không những có giá trị thực chất về nội dung mà ông còn có ý hướng bồi đắp cho thế hệ hậu sinh qua vài dịch thuật những kiến thức cần thiết về văn minh Trung Hoa, Ấn Độ, phối nhịp với chức năng phát triển kinh tế, xã hội. Xin kể ra: Khổng Tử, Sử Trung Quốc, Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ, Lịch Sử Văn Minh Trung Hoa… Một cuốn sách khác, đáng kể thêm: Những Vấn Đề Của Thời Đại (NVĐ-CTĐ), là một tiểu luận về các vấn nạn tồn đọng của phát triển kinh tế toàn cầu. Cuốn sau này, vì xuất bản quá cận kề ngày 30/4/1975 nên, tôi tin một số lượng nhỏ sách chưa được phân phối đến được tay người đọc. Hẳn là vô tình, nhưng cuốn NVĐ-CTĐ tôi xem như là một tác phẩm song song với Những Vấn Đề Triết Học Hiện Đại (NVĐ-THHĐ) của cố Giáo sư Lê Tôn Nghiêm, bổ túc cho nhau về các lý thuyết, tư tưởng và các vấn đề thực dụng đang hiện lưu trên thế giới –cũng là đóng góp tư duy cần cho các chương trình phát triển kinh tế-xã hội. NVĐ-THHĐ là cuốn sách hay và quá cần thiết cho sinh viên mọi ngành. Tôi còn nhớ có hai chương nói về Cơ Cấu Luận (Structuralism) và Triết học chính trị-xã hội của Max Weber, trình bày thật hay. NVĐ-THHĐ có trong tủ sách gia đình của tôi, nhưng ở ngoài chợ trời sách trên các vỉa hè Sài Gòn lúc còn trong nước (5, 6 năm sau 30.4.75), tôi không thấy. Ở nước ngoài trong hai thập niên qua, có lẽ không có ai biết để mang theo, nên không hề thấy sách được in lại ? Tôi mong cuốn sách này, nhờ qua phương tiện “chôm chĩa” nào đó, một số sách đã được tiếp thu ra miền Bắc VN…chứ nếu để bị lửa cách mạng hoặc các gánh bán ‘ve chai’ tiêu hủy hết thì tiếc lắm. Xin được chấp vài vái đến hương linh của hai cụ.

Đặc biệt, trong các dịch tác về “lịch sử văn minh” của thế giới, học giả Nguyễn Hiến Lê chọn dịch William J. Durant, thay vì Arnold Toynbee có lẽ vì công trình của Durant đồ sộ, lớn lao, công phu hơn. Ở trong nước, kể từ khi cán bộ Việt Cộng thay đổi cách ăn mặc –từ bỏ đôi dép râu, chiếc áo tay cụt bỏ ngoài quần bằng đôi dày soulier, thắt cà-vạt với gi-lê áo vét, là lúc những cuốn sách đã xuất bản ở miền Nam được “cóp” và in lại, khá nhiều. Tôi không tin hiện tượng này là do chính sách của Bộ Văn hóa-Thông tin, Bộ Giáo dục đào tạo mà vì yếu tính của kinh tế thị trường. Những cuốn sách của các tác giả ở miền Nam bán chạy, vì có nhiều độc giả ưa chuộng (kể cả các độc giả xuất thân từ xã hội cộng sản miền Bắc hay đang trưởng thành sống một gian đoạn với cộng sản ở miền Nam), nên lời nhiều. Có lời nhiều thì sách được in ra với số lượng lớn, tái bản nhiều lần. Từ đó, nảy sinh ra hiện tượng “đạo văn, đạo nhạc, đạo tranh”..đang phổ biến ở Việt Nam. Cũng có thể có cả hiện tượng “đạo sách” nữa, như họ dùng một cuốn sách (dù không có giá trị gì ) nhưng dễ tạo ra các thị hiếu nhất thời như các chuyện tình, kích dục… rồi xáo trộn các phần giữa, phần đầu, viết lại phần kết luận và thay đổi tựa đề sách. Xong rồi đem bản đánh máy đi chạy chọt, hối lộ, “đi lễ” với các cấp quan quyền kiểm duyệt, cho in sách, phát hành… và ngồi chờ chia lời. Một cuốn sách mà tác giả được chia vài chục triệu đồng (vài ngàn đô Mỹ) là có thể sống được nửa năm, một năm, ai lại không muốn làm trong một xã hội nhố nhăng, bịp bợm như xã hội Việt Nam hiện nay!?

Trong dịch tác Lịch Sử Văn Minh Trung Hoa (LSVMTH) của William Durant (sách này đã được Nhà xb Văn hóa-Thông tin của Việt Cộng in lại), có cả phần ghi chú của học giả Nguyễn Hiến Lê. Trong chương III, Bắt Đầu Một Trật Tự Mới, tác giả Durant nhận xét rằng nhờ vào hình thức hôn nhân cổ ở Trung Hoa đã tàn lụi, nhiều thanh niên đã tự chọn bạn trăm năm. Chế độ đa thê đã suy, trai gái được tự do và chung đụng trong các trường Đại học. Nhất là từ giai đoạn chế độ cộng sản Mao Trạch Đông, quyền phụ nữ đã ngang hàng với nam giới. Phụ nữ đã biết cai đẻ, ngừa thai. “Họ không còn giết con khi không muốn nuôi nữa, và họ bắt đầu hạn chế sinh dục. Từ khi có cách mạng đến nay, dân số không tăng lên mấy; có thể nó đã bắt đầu giảm nữa.” (trang 345…đến 346, sách đã dẫn). Ở đoạn này, Nguyễn Hiến Lê đã ghi chú như sau:

Châu Âu đỡ lo một phần nào về “hoàng họa” (họa người da vàng) vì các tiệm thuốc Trung Hoa quảng cáo mạnh các phương pháp và thuốc ngừa thai. [Dân số Trung Hoa chưa bắt đầu giảm đâu; hiện nay người ta tính rằng họ đã có non 800 triệu dân, và trước cuối thế kỷ này sẽ có trên một tỉ.]” (trang 346, sđd).

Tiếc là William Durant bắt đầu viết tập LSVMTH hơi sớm (bắt đầu Đệ Nhị Thế Chiến) và hoàn tất vào giai đoạn mở đầu cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao, nên có nhận xét về nạn nhân mãn Trung Hoa lục địa không được đầy đủ. Thiếu sót đầu tiên là bởi, Trung Cộng trong giai đoạn ‘cách mạng văn hóa’ đang là một xã hội đóng kín, đâu có phổ biến con số thống kê chính xác ra bên ngoài. Khi viết “Từ khi có cách mạng văn hóa đến nay, dân số không tăng lên mấy; có thể nó bắt đầu giảm nữa” là cách nói ức đoán thôi. Thứ đến, có lẽ xuất phát từ những thông tin tình báo của phương Tây, người ta ước lượng cộng sản Tàu đã giết hại hàng triệu người dưới thời Mao, và với chính sách hạn chế sinh đẻ khắc nghiệt của Đảng Cộng sản, dù cho có tiêu hủy bớt vài chục triệu sinh mạng trong vòng hai thập niên thì cũng chưa phải là “giảm”.

Ngày nay, Internet là nguồn phương tiện mênh mông và cập nhật thường xuyên, nên vấn đề dân số của Trung Quốc đã được công bố rõ ràng. Theo vài nhà nghiên cứu độc lập, thí dụ : nhà địa dư học Matt Rosenberg trong: The Handy Geography Answer Book and The Geography Bee Complete Preparation Handbook giữa năm 2008, dân số Trung Quốc trên 1.3 tỉ người (1,330,044,605 as of mid-2008), chiếm 1/5 dân số toàn cầu (6.7 tỉ); con số với thời gian gần nhất theo tài liệu thư viện online của CIA, dân số Trung Quốc vào tháng 7/2009 gần 1.4 tỉ ( 1,338,612,968 ). Một nhà địa dư học khác, A. A. Bennet nêu ra một thắc mắc là kể từ khi Mao Trạch Đông thắng Quốc Dân Đảng và cộng sản cầm quyền trong vòng 45 năm với chính sách tàn sát đối lập và dân chúng cộng với chính sách hạn chế sinh đẻ (như chính sách một-con [one-child policy]) và các nạn đói ăn xảy ra liên miên thế mà dân số lại tăng gấp đôi (1950 Dân số = 550 Triệu, 1996 Dân số = 1.2 Tỉ) là nghĩa làm sao? Vậy thì, dưới một chế độ cộng sản, độc tài chưa hẳn là có hiệu quả trong việc ngăn chận nạn nhân mãn?. Cho nên, theo bản tin của Tân Hoa Xã vào ngày 21/7/2009 tuyên bố mạnh mẽ rằng đến năm 2030, khi dân số Trung Quốc tăng lên đỉnh điểm 1.465 tỉ người thì mức phát triển dân số sẽ là zéro, thật khó mà tin được. (Tian Xueyuan, former president of the Institute of Population and Labor Economics under the Chinese Academy of Social Sciences (CASS), said at an economic and social development forum: "Zero growth could be realized when the country's population hit the peak of 1.465 billion by 2030," ).

“Yellow Peril” (Pháp ngữ: Le Péril Jaune), học giả Nguyễn Hiến Lê dịch là “Hoàng họa” nghe hợp lý, thay vì nói “họa Da Vàng” (dù cả hai nhóm từ đồng nghĩa). “Hoàng họa” làm cho ta liên tưởng ngay là “họa người Tàu”, chủng tộc Tàu. Nói “họa Da Vàng” tức là bao trùm hết cả vùng Á Châu mà đứng ở vị trí địa lý của người Âu, thì Á Châu là vùng Viễn Đông (Far East) bao gồm: Đông Á (East Asia) và Đông Nam Á (South-East Asia). Đông Á gồm các quốc gia : Trung Hoa lục địa, Mông Cổ (Mongolia), Hong Kong, Nhật, Macau, Bắc Hàn, Nam Hàn, Đài Loan với tổng diện tích : 11,839,074 cây số vuông; Đông Nam Á bao gồm : Brunei, Cambodia, Indonesia, Laos, Malaysia, Myanmar, Papua New Guinea, Philippines, Singapore, Thailand, Timor-Leste, và Vietnam với tổng diện tích : 5,000,000 cây số vuông.

Tổng cộng : [ Diện tích (Đông Á + Đông Nam Á) = 12% so với Diện tích đất của các quốc gia trên thế giới cộng lại (không kể biển) > 16,839,074 cây số vuông/ 148,940,500 cây số vuông]; [ Dân số (Đông Á + Đông Nam Á) = 32.1% so với Dân số toàn cầu > 2,148,784,500/ 6,692,030,277 (năm 2008) ].

Vậy, với diện tích = 12%, nhưng dân số chiếm 1/3 (32.1%) so với toàn cầu là con số thiếu cân đối trong vấn đề phát triển. Chúng ta cũng nên lưu ý, vùng Trung Đông (Middle East) không được kể là Á Châu, vì họ được xếp là Dân Da Nâu (Brown Race); trong khi đó, về dân số và diện tích của Trung Quốc so với Đông Á + Đông Nam Á là ¾ ( 75% ) . Cho nên, khi người ta nói “Hoàng họa” là ám chỉ trực tiếp đến chủng tộc Tàu là điều hợp lý thôi.
Ở cộng đồng người Việt nước ngoài, giáo sư Cao Huy Thuần là người đầu tiên xướng xuất về viễn tượng “Hoàng họa” qua bài tham luận “Trung Quốc: Một Dấu Hỏi” được đọc tại Hội thảo về Phát triển khu vực chấu Á Thái Bình Dương và tranh chấp Biển Đông vào ngày 15/16.8.1998 tại New York City. Khi “dấu hỏi” về một cường quốc đang lên (a rising power) là Trung Quốc, thì đó phải là một dấu hỏi lớn. Qua bài tham luận của Cao Huy Thuần không ai có thể phủ nhận “cường quốc đang lên ấy” là một hiểm họa, dù ông không hề đề cập trực tiếp về nạn “Hoàng họa” –một vấn đề còn phức tạp rối rắm nhiều hơn là sức mạnh kinh tế và vũ khí nữa. Công bố cái “dấu hỏi về Trung Quốc”, Gs Cao Huy Thuần không chỉ nêu bật vai trò một nhà chiến lược (strategist), ông còn muốn đề cập về nó trên “cương vị Việt Nam” –đó là thái độ của một kẻ sĩ thời đại, của ‘một người yêu nước mình’ trước tình huống “vị thế răng môi” Trung Quốc-Việt Nam. (Có người nói Gs Cao Huy Thuần là một người “thân cộng” là một kiểu tư duy dại dột, chỉ làm cho cộng sản vênh váo hơn lên thôi…) Từ đó, ông đối chiếu tới hai khả thể khách quan có thể cứu lấy Việt Nam : một là thế ‘balancer’ cán cân lực lượng của Mỹ trước “sự bắt tay của Trung Quốc-Nhật (hoặc “ưu thắng của nước này trên nước kia”); hai là, Việt Nam cần có tầm chiến lược để bảo vệ mình như Đài Loan đã tự bảo vệ họ trong tư thế một ‘quốc gia độc lập’, khác với Trung Quốc -bằng một hệ thống chính trị dân chủ.

Tự ví mình “như là một trí thức trói gà không chặt”, ông Cao Huy Thuần không dám mơ ước gì hơn là dùng “văn hóa như là chiến lược”, tức là phải tách bạch sự khác biệt giữa văn hóa “da vàng Tàu” và “da vàng Việt”. Qua thực tế lịch sử, thì sự dị biệt ấy rất sâu xa, dù khi các cụ của ta nói “Tam giáo đồng quy” đi nữa, nội dung và sự kết nạp “tam giáo” giữa hai nước cũng không hề tương đồng. Đó là lý do tại sao nước ta trong một ngàn năm bị Tàu đô hộ, vẫn không hề bị đồng hóa.

Ở Mỹ, sau Đệ Nhất Thế Chiến bốn năm (1922), Lothrop Stoddard qua Cơn Triều Đang Lên Của Dân Da Mầu Đối Kháng Với Quyền-Chủ-tể Của Dân Da Trắng (The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy) đã không hề thấy “xấu hổ” về dư luận (có thể có) chỉ trích ông kỳ thị chủng tộc, đã dùng nguyên một chương để nói về nạn “Hoàng họa”. Ông nói thẳng “Hoàng họa” chính là anh Tàu Trung Quốc.

Trong Chương II, Vùng Đất Của Người Da Vàng (Yellow Man’s Land), Stoddard viết:

“Chủng tộc tập trung của thế giới da vàng luôn luôn là Trung Hoa. Từ buổi bình minh của lịch sử, chủng loại to lớn này là trung tâm văn minh phát tỏa khắp vùng Viễn Đông. Qua “Vương Quốc Đứng Giữa”, những thân tộc chung quanh học đòi một kiểu là dân Nhật và Hàn Quốc ở phía đông; Thái, Anam-mít (Việt Nam) và Căm-bốt ở phía nam; phía bắc thì có dân Mông-cổ và Mãn-chu. Đối với những giống người này, Trung Hoa là một ông thầy giáo oai vệ, đôi khi còn trừng phạt (chúng) về sự tự phụ, nếu chưa được luôn thấm nhuần các nguyên tắc văn minh trật tự của họ. Tuy vậy, vẫn có một vài phát triển riêng lẻ những giống dân Viễn Đông khác nhau, họ đều xuất phát từ cái nền của Trung Hoa. Dù cho một Nhật Bản hiện đại thức dậy trong thoáng chốc làm chủ tể chính trị của Viễn Đông, không được quên rằng Trung Quốc vẫn duy trì không những về văn hóa mà còn là đất đai và chủng tộc trung tâm của thế giới da vàng. 4 phần 5 chủng tộc da vàng tập trung ở Trung Hoa, gần 400 triệu người Tàu so với 60 triệu người Nhật, 16 triệu người Hàn, 26 triệu người Đông Dương, và có thể là 10 triệu dân không phải gốc Tàu quanh vùng biên giới của Trung Hoa.” (The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy, by Lothtrop Stoddard). [lưu ý: con số thống kê vào năm 1922! ] (*)

Quả đúng như Gs Thuần đã viết, khi người Âu (dù ở level trí thức nào) đề cập tới người Tàu và Việt họ đều đánh đồng hai giống dân này chỉ là một. Tàu là Việt mà Việt cũng là Tàu. Họ không hiểu được sự dị biệt về chủng tộc, văn hóa, cá tinh, tâm lý, tập quán giữa người Tàu và người Việt. Nhân vật mà tôi đề cập ở trên –Lothrop Stoddard là một sử gia, đậu tiến sĩ Sử học ở Harvard vào đầu thế kỷ 20, cũng không nhìn khác. Có điều vì là một người có kiến thức rộng nên, Stoddard thấy rõ là dân Nhật đã học hỏi kỹ thuật, khoa học của người da trắng để trở thành một quốc gia da vàng hiện đại, đánh ngã Nga da trắng (1904) , chiếm ngự Tàu da vàng (1894) , nhưng ông biết rằng những chiến thắng thoáng chốc đó không thể làm cho Nhật trở thành trung tâm “họa da vàng”, mà cái họa sớm hay muộn sẽ đến từ Trung Quốc. Mặt khác, một số dân tộc tính của người Nhật (giống như người da trắng) không có khả năng chịu đựng nóng nhiệt đới, lại không có khả năng thích ứng với cái lạnh vùng Nam-Bắc cực. Khi chiếm đóng Formosa (Đài Loan) –dù không phải là vùng nhiệt đới, Nhật vẫn không thành tựu được vai trò thực dân nữa là. Trong khi da vàng Tàu, dù cho có di cư đến vùng Siberia họ vẫn có khả năng thích ứng và chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt như thường. Vì sao vậy? Stoddard trích lại nhận xét của Doctor Wu-Ting-Fang: “Kinh nghiệm đã xác nhận rằng người Tàu là những người lao động ở khắp mọi nơi dễ dàng vượt xa mọi đối tác. Họ là những người siêng năng, thông minh và kỷ luật. Họ có thể làm việc dưới những điều kiện có thể chết người với một chủng tộc kém sức chịu đựng hơn; trong một cái nóng như rồng phun lửa, trong cái lạnh chỉ dành cho loài gấu bắc cực, cố sức chịu đựng suốt hàng giờ dài làm việc cực nhọc chỉ để đổi lấy vài bát cơm ăn.” (**)

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, người Nhật đã thấy được rằng họ không có quyền lợi sống còn ở các vùng nhiệt đới châu Á cũng như Trung Quốc; trái lại, Trung Quốc âm thầm bành trướng thực dân bằng con đường mậu dịch và di dân. Đối với Trung Quốc, những nguồn lợi thiên nhiên ngoài Á châu là Mỹ, Úc, một phần Châu Mỹ Latinh ở bờ biển phía Tây. Nhưng những vùng đất này đã được xác lập bởi người da trắng; do đó Tàu chỉ có thể phá vỡ các rào cản này bằng sức mạnh thôi. Đó là điều không tưởng, nên trước sau, Trung Quốc vẫn chỉ nhắm vào các nước da vàng của Á châu, từng bước làm chủ-tể thống lĩnh về mọi lãnh vực.

Điều tưởng chỉ là viễn tượng nói trên, nay đã thành thực trạng. Từng bước hiển lộ, Trung Quốc đang tìm cách khuất phục ý chí của Đảng Cộng Sản VN, bắt đầu từ các nhân vật trong Bộ Chính Trị. Trung Quốc có nhiều khả năng thành công, ngoại trừ một nước Việt Nam được dân chủ hóa chính trị cấp thời để nhận sự hậu thuẫn của Tây Phương (như Đài Loan hiện nay) mà giáo sư Cao Huy Thuần mơ ước. Trong khi đó, giả thiết về một hiện tượng mặc cảm tâm lý tự ti (lẫn tự tôn) yếu kém với người da trắng, có thể có một số người Việt (bao nhiêu phần trăm ?) sẽ hùa theo sức mạnh quân sự và vũ khí đang lên của Trung Quốc –thỏa hiệp bằng tinh thần muốn thấy một châu Á da vàng hùng cường đương cự lại với sức mạnh da trắng trong tương lai. Một hình thức “Đại Đông Á” của thế kỷ 21. Sự kiện này nếu có thể xảy ra, đích thực là một đại họa không riêng cho nước Việt Nam, các quốc gia “da vàng” dị biệt với Trung Quốc về văn hóa và ngôn ngữ, mà còn cho cả thế giới vào giữa thế kỷ này.

(còn tiếp)

nguyễn văn hóa
Giao thừa 13.02.2010

Vài chú thích:

(*) “The ethnic focus of the yellow world has always been China. Since the dawn of history this immense human ganglion has been the centre from which civilization has radiated throughout the Far East. About this "Middle Kingdom," as it sapiently styled itself, the other yellow folk were disposed-Japanese and Koreans to the east; Siamese, Annamites, and Cambodians to the south; and to the north the nomad Mongols and Manchus. To all these peoples China was the august preceptor , sometimes chastising their presumption, yet always instilling the principles of its ordered civilization. However diverse may have been the individual developments of the various Far Eastern peoples, they spring from a common Chinese foundation. Despite modern Japan's meteoric rise to political mastery of the Far East, it must not be forgotten that China remains not only the cultural but also the territorial and racial centre of the yellow world. Four-fifths of the yellow race is concentrated in China, there being nearly 400,000,000 Chinese as against 60,000,000 Japanese, 16,000,000 Koreans, 26,000,000 Indo-Chinese, and perhaps 10,000,000 people of non-Chinese stocks included within China's political frontiers.”
(by Lothrop Stoddard, A.M., Ph.D PART I - The Rising Tide of Color CHAPTER II YELLOW MAN'S LAND New York 1922)

(**) "Experience proves that the Chinese as all-round laborers can easily outdistance all competitors. They are industrious, intelligent, and orderly. They can work under conditions that would kill a man of less hardy race; in heat that would kill a salamander, or in cold that would please a polar bear, sustaining their energies, through long hours of unremitting toil with only a few bowls of rice." (Sách dẫn như trên, Quoted by Alleyne Ireland, "Commercial Aspects of the Yellow Peril," North American Review, September, 1900.)

No comments: