Search This Blog

Monday, February 15, 2010

Mấy Suy Nghĩ Rời Trong Đêm Giao Thừa Năm Dần (2010)

nguyễn văn hóa

1. Nạn “Hoàng họa” (Yellow Peril)

Một thời gian ngắn sau khi chế độ miền Nam sụp đổ, cố học giả Nguyễn Hiến Lê cho ra đời thêm vài cuốn sách mới, không những có giá trị thực chất về nội dung mà ông còn có ý hướng bồi đắp cho thế hệ hậu sinh qua vài dịch thuật những kiến thức cần thiết về văn minh Trung Hoa, Ấn Độ, phối nhịp với chức năng phát triển kinh tế, xã hội. Xin kể ra: Khổng Tử, Sử Trung Quốc, Lịch Sử Văn Minh Ấn Độ, Lịch Sử Văn Minh Trung Hoa… Một cuốn sách khác, đáng kể thêm: Những Vấn Đề Của Thời Đại (NVĐ-CTĐ), là một tiểu luận về các vấn nạn tồn đọng của phát triển kinh tế toàn cầu. Cuốn sau này, vì xuất bản quá cận kề ngày 30/4/1975 nên, tôi tin một số lượng nhỏ sách chưa được phân phối đến được tay người đọc. Hẳn là vô tình, nhưng cuốn NVĐ-CTĐ tôi xem như là một tác phẩm song song với Những Vấn Đề Triết Học Hiện Đại (NVĐ-THHĐ) của cố Giáo sư Lê Tôn Nghiêm, bổ túc cho nhau về các lý thuyết, tư tưởng và các vấn đề thực dụng đang hiện lưu trên thế giới –cũng là đóng góp tư duy cần cho các chương trình phát triển kinh tế-xã hội. NVĐ-THHĐ là cuốn sách hay và quá cần thiết cho sinh viên mọi ngành. Tôi còn nhớ có hai chương nói về Cơ Cấu Luận (Structuralism) và Triết học chính trị-xã hội của Max Weber, trình bày thật hay. NVĐ-THHĐ có trong tủ sách gia đình của tôi, nhưng ở ngoài chợ trời sách trên các vỉa hè Sài Gòn lúc còn trong nước (5, 6 năm sau 30.4.75), tôi không thấy. Ở nước ngoài trong hai thập niên qua, có lẽ không có ai biết để mang theo, nên không hề thấy sách được in lại ? Tôi mong cuốn sách này, nhờ qua phương tiện “chôm chĩa” nào đó, một số sách đã được tiếp thu ra miền Bắc VN…chứ nếu để bị lửa cách mạng hoặc các gánh bán ‘ve chai’ tiêu hủy hết thì tiếc lắm. Xin được chấp vài vái đến hương linh của hai cụ.

Đặc biệt, trong các dịch tác về “lịch sử văn minh” của thế giới, học giả Nguyễn Hiến Lê chọn dịch William J. Durant, thay vì Arnold Toynbee có lẽ vì công trình của Durant đồ sộ, lớn lao, công phu hơn. Ở trong nước, kể từ khi cán bộ Việt Cộng thay đổi cách ăn mặc –từ bỏ đôi dép râu, chiếc áo tay cụt bỏ ngoài quần bằng đôi dày soulier, thắt cà-vạt với gi-lê áo vét, là lúc những cuốn sách đã xuất bản ở miền Nam được “cóp” và in lại, khá nhiều. Tôi không tin hiện tượng này là do chính sách của Bộ Văn hóa-Thông tin, Bộ Giáo dục đào tạo mà vì yếu tính của kinh tế thị trường. Những cuốn sách của các tác giả ở miền Nam bán chạy, vì có nhiều độc giả ưa chuộng (kể cả các độc giả xuất thân từ xã hội cộng sản miền Bắc hay đang trưởng thành sống một gian đoạn với cộng sản ở miền Nam), nên lời nhiều. Có lời nhiều thì sách được in ra với số lượng lớn, tái bản nhiều lần. Từ đó, nảy sinh ra hiện tượng “đạo văn, đạo nhạc, đạo tranh”..đang phổ biến ở Việt Nam. Cũng có thể có cả hiện tượng “đạo sách” nữa, như họ dùng một cuốn sách (dù không có giá trị gì ) nhưng dễ tạo ra các thị hiếu nhất thời như các chuyện tình, kích dục… rồi xáo trộn các phần giữa, phần đầu, viết lại phần kết luận và thay đổi tựa đề sách. Xong rồi đem bản đánh máy đi chạy chọt, hối lộ, “đi lễ” với các cấp quan quyền kiểm duyệt, cho in sách, phát hành… và ngồi chờ chia lời. Một cuốn sách mà tác giả được chia vài chục triệu đồng (vài ngàn đô Mỹ) là có thể sống được nửa năm, một năm, ai lại không muốn làm trong một xã hội nhố nhăng, bịp bợm như xã hội Việt Nam hiện nay!?

Trong dịch tác Lịch Sử Văn Minh Trung Hoa (LSVMTH) của William Durant (sách này đã được Nhà xb Văn hóa-Thông tin của Việt Cộng in lại), có cả phần ghi chú của học giả Nguyễn Hiến Lê. Trong chương III, Bắt Đầu Một Trật Tự Mới, tác giả Durant nhận xét rằng nhờ vào hình thức hôn nhân cổ ở Trung Hoa đã tàn lụi, nhiều thanh niên đã tự chọn bạn trăm năm. Chế độ đa thê đã suy, trai gái được tự do và chung đụng trong các trường Đại học. Nhất là từ giai đoạn chế độ cộng sản Mao Trạch Đông, quyền phụ nữ đã ngang hàng với nam giới. Phụ nữ đã biết cai đẻ, ngừa thai. “Họ không còn giết con khi không muốn nuôi nữa, và họ bắt đầu hạn chế sinh dục. Từ khi có cách mạng đến nay, dân số không tăng lên mấy; có thể nó đã bắt đầu giảm nữa.” (trang 345…đến 346, sách đã dẫn). Ở đoạn này, Nguyễn Hiến Lê đã ghi chú như sau:

Châu Âu đỡ lo một phần nào về “hoàng họa” (họa người da vàng) vì các tiệm thuốc Trung Hoa quảng cáo mạnh các phương pháp và thuốc ngừa thai. [Dân số Trung Hoa chưa bắt đầu giảm đâu; hiện nay người ta tính rằng họ đã có non 800 triệu dân, và trước cuối thế kỷ này sẽ có trên một tỉ.]” (trang 346, sđd).

Tiếc là William Durant bắt đầu viết tập LSVMTH hơi sớm (bắt đầu Đệ Nhị Thế Chiến) và hoàn tất vào giai đoạn mở đầu cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao, nên có nhận xét về nạn nhân mãn Trung Hoa lục địa không được đầy đủ. Thiếu sót đầu tiên là bởi, Trung Cộng trong giai đoạn ‘cách mạng văn hóa’ đang là một xã hội đóng kín, đâu có phổ biến con số thống kê chính xác ra bên ngoài. Khi viết “Từ khi có cách mạng văn hóa đến nay, dân số không tăng lên mấy; có thể nó bắt đầu giảm nữa” là cách nói ức đoán thôi. Thứ đến, có lẽ xuất phát từ những thông tin tình báo của phương Tây, người ta ước lượng cộng sản Tàu đã giết hại hàng triệu người dưới thời Mao, và với chính sách hạn chế sinh đẻ khắc nghiệt của Đảng Cộng sản, dù cho có tiêu hủy bớt vài chục triệu sinh mạng trong vòng hai thập niên thì cũng chưa phải là “giảm”.

Ngày nay, Internet là nguồn phương tiện mênh mông và cập nhật thường xuyên, nên vấn đề dân số của Trung Quốc đã được công bố rõ ràng. Theo vài nhà nghiên cứu độc lập, thí dụ : nhà địa dư học Matt Rosenberg trong: The Handy Geography Answer Book and The Geography Bee Complete Preparation Handbook giữa năm 2008, dân số Trung Quốc trên 1.3 tỉ người (1,330,044,605 as of mid-2008), chiếm 1/5 dân số toàn cầu (6.7 tỉ); con số với thời gian gần nhất theo tài liệu thư viện online của CIA, dân số Trung Quốc vào tháng 7/2009 gần 1.4 tỉ ( 1,338,612,968 ). Một nhà địa dư học khác, A. A. Bennet nêu ra một thắc mắc là kể từ khi Mao Trạch Đông thắng Quốc Dân Đảng và cộng sản cầm quyền trong vòng 45 năm với chính sách tàn sát đối lập và dân chúng cộng với chính sách hạn chế sinh đẻ (như chính sách một-con [one-child policy]) và các nạn đói ăn xảy ra liên miên thế mà dân số lại tăng gấp đôi (1950 Dân số = 550 Triệu, 1996 Dân số = 1.2 Tỉ) là nghĩa làm sao? Vậy thì, dưới một chế độ cộng sản, độc tài chưa hẳn là có hiệu quả trong việc ngăn chận nạn nhân mãn?. Cho nên, theo bản tin của Tân Hoa Xã vào ngày 21/7/2009 tuyên bố mạnh mẽ rằng đến năm 2030, khi dân số Trung Quốc tăng lên đỉnh điểm 1.465 tỉ người thì mức phát triển dân số sẽ là zéro, thật khó mà tin được. (Tian Xueyuan, former president of the Institute of Population and Labor Economics under the Chinese Academy of Social Sciences (CASS), said at an economic and social development forum: "Zero growth could be realized when the country's population hit the peak of 1.465 billion by 2030," ).

“Yellow Peril” (Pháp ngữ: Le Péril Jaune), học giả Nguyễn Hiến Lê dịch là “Hoàng họa” nghe hợp lý, thay vì nói “họa Da Vàng” (dù cả hai nhóm từ đồng nghĩa). “Hoàng họa” làm cho ta liên tưởng ngay là “họa người Tàu”, chủng tộc Tàu. Nói “họa Da Vàng” tức là bao trùm hết cả vùng Á Châu mà đứng ở vị trí địa lý của người Âu, thì Á Châu là vùng Viễn Đông (Far East) bao gồm: Đông Á (East Asia) và Đông Nam Á (South-East Asia). Đông Á gồm các quốc gia : Trung Hoa lục địa, Mông Cổ (Mongolia), Hong Kong, Nhật, Macau, Bắc Hàn, Nam Hàn, Đài Loan với tổng diện tích : 11,839,074 cây số vuông; Đông Nam Á bao gồm : Brunei, Cambodia, Indonesia, Laos, Malaysia, Myanmar, Papua New Guinea, Philippines, Singapore, Thailand, Timor-Leste, và Vietnam với tổng diện tích : 5,000,000 cây số vuông.

Tổng cộng : [ Diện tích (Đông Á + Đông Nam Á) = 12% so với Diện tích đất của các quốc gia trên thế giới cộng lại (không kể biển) > 16,839,074 cây số vuông/ 148,940,500 cây số vuông]; [ Dân số (Đông Á + Đông Nam Á) = 32.1% so với Dân số toàn cầu > 2,148,784,500/ 6,692,030,277 (năm 2008) ].

Vậy, với diện tích = 12%, nhưng dân số chiếm 1/3 (32.1%) so với toàn cầu là con số thiếu cân đối trong vấn đề phát triển. Chúng ta cũng nên lưu ý, vùng Trung Đông (Middle East) không được kể là Á Châu, vì họ được xếp là Dân Da Nâu (Brown Race); trong khi đó, về dân số và diện tích của Trung Quốc so với Đông Á + Đông Nam Á là ¾ ( 75% ) . Cho nên, khi người ta nói “Hoàng họa” là ám chỉ trực tiếp đến chủng tộc Tàu là điều hợp lý thôi.
Ở cộng đồng người Việt nước ngoài, giáo sư Cao Huy Thuần là người đầu tiên xướng xuất về viễn tượng “Hoàng họa” qua bài tham luận “Trung Quốc: Một Dấu Hỏi” được đọc tại Hội thảo về Phát triển khu vực chấu Á Thái Bình Dương và tranh chấp Biển Đông vào ngày 15/16.8.1998 tại New York City. Khi “dấu hỏi” về một cường quốc đang lên (a rising power) là Trung Quốc, thì đó phải là một dấu hỏi lớn. Qua bài tham luận của Cao Huy Thuần không ai có thể phủ nhận “cường quốc đang lên ấy” là một hiểm họa, dù ông không hề đề cập trực tiếp về nạn “Hoàng họa” –một vấn đề còn phức tạp rối rắm nhiều hơn là sức mạnh kinh tế và vũ khí nữa. Công bố cái “dấu hỏi về Trung Quốc”, Gs Cao Huy Thuần không chỉ nêu bật vai trò một nhà chiến lược (strategist), ông còn muốn đề cập về nó trên “cương vị Việt Nam” –đó là thái độ của một kẻ sĩ thời đại, của ‘một người yêu nước mình’ trước tình huống “vị thế răng môi” Trung Quốc-Việt Nam. (Có người nói Gs Cao Huy Thuần là một người “thân cộng” là một kiểu tư duy dại dột, chỉ làm cho cộng sản vênh váo hơn lên thôi…) Từ đó, ông đối chiếu tới hai khả thể khách quan có thể cứu lấy Việt Nam : một là thế ‘balancer’ cán cân lực lượng của Mỹ trước “sự bắt tay của Trung Quốc-Nhật (hoặc “ưu thắng của nước này trên nước kia”); hai là, Việt Nam cần có tầm chiến lược để bảo vệ mình như Đài Loan đã tự bảo vệ họ trong tư thế một ‘quốc gia độc lập’, khác với Trung Quốc -bằng một hệ thống chính trị dân chủ.

Tự ví mình “như là một trí thức trói gà không chặt”, ông Cao Huy Thuần không dám mơ ước gì hơn là dùng “văn hóa như là chiến lược”, tức là phải tách bạch sự khác biệt giữa văn hóa “da vàng Tàu” và “da vàng Việt”. Qua thực tế lịch sử, thì sự dị biệt ấy rất sâu xa, dù khi các cụ của ta nói “Tam giáo đồng quy” đi nữa, nội dung và sự kết nạp “tam giáo” giữa hai nước cũng không hề tương đồng. Đó là lý do tại sao nước ta trong một ngàn năm bị Tàu đô hộ, vẫn không hề bị đồng hóa.

Ở Mỹ, sau Đệ Nhất Thế Chiến bốn năm (1922), Lothrop Stoddard qua Cơn Triều Đang Lên Của Dân Da Mầu Đối Kháng Với Quyền-Chủ-tể Của Dân Da Trắng (The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy) đã không hề thấy “xấu hổ” về dư luận (có thể có) chỉ trích ông kỳ thị chủng tộc, đã dùng nguyên một chương để nói về nạn “Hoàng họa”. Ông nói thẳng “Hoàng họa” chính là anh Tàu Trung Quốc.

Trong Chương II, Vùng Đất Của Người Da Vàng (Yellow Man’s Land), Stoddard viết:

“Chủng tộc tập trung của thế giới da vàng luôn luôn là Trung Hoa. Từ buổi bình minh của lịch sử, chủng loại to lớn này là trung tâm văn minh phát tỏa khắp vùng Viễn Đông. Qua “Vương Quốc Đứng Giữa”, những thân tộc chung quanh học đòi một kiểu là dân Nhật và Hàn Quốc ở phía đông; Thái, Anam-mít (Việt Nam) và Căm-bốt ở phía nam; phía bắc thì có dân Mông-cổ và Mãn-chu. Đối với những giống người này, Trung Hoa là một ông thầy giáo oai vệ, đôi khi còn trừng phạt (chúng) về sự tự phụ, nếu chưa được luôn thấm nhuần các nguyên tắc văn minh trật tự của họ. Tuy vậy, vẫn có một vài phát triển riêng lẻ những giống dân Viễn Đông khác nhau, họ đều xuất phát từ cái nền của Trung Hoa. Dù cho một Nhật Bản hiện đại thức dậy trong thoáng chốc làm chủ tể chính trị của Viễn Đông, không được quên rằng Trung Quốc vẫn duy trì không những về văn hóa mà còn là đất đai và chủng tộc trung tâm của thế giới da vàng. 4 phần 5 chủng tộc da vàng tập trung ở Trung Hoa, gần 400 triệu người Tàu so với 60 triệu người Nhật, 16 triệu người Hàn, 26 triệu người Đông Dương, và có thể là 10 triệu dân không phải gốc Tàu quanh vùng biên giới của Trung Hoa.” (The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy, by Lothtrop Stoddard). [lưu ý: con số thống kê vào năm 1922! ] (*)

Quả đúng như Gs Thuần đã viết, khi người Âu (dù ở level trí thức nào) đề cập tới người Tàu và Việt họ đều đánh đồng hai giống dân này chỉ là một. Tàu là Việt mà Việt cũng là Tàu. Họ không hiểu được sự dị biệt về chủng tộc, văn hóa, cá tinh, tâm lý, tập quán giữa người Tàu và người Việt. Nhân vật mà tôi đề cập ở trên –Lothrop Stoddard là một sử gia, đậu tiến sĩ Sử học ở Harvard vào đầu thế kỷ 20, cũng không nhìn khác. Có điều vì là một người có kiến thức rộng nên, Stoddard thấy rõ là dân Nhật đã học hỏi kỹ thuật, khoa học của người da trắng để trở thành một quốc gia da vàng hiện đại, đánh ngã Nga da trắng (1904) , chiếm ngự Tàu da vàng (1894) , nhưng ông biết rằng những chiến thắng thoáng chốc đó không thể làm cho Nhật trở thành trung tâm “họa da vàng”, mà cái họa sớm hay muộn sẽ đến từ Trung Quốc. Mặt khác, một số dân tộc tính của người Nhật (giống như người da trắng) không có khả năng chịu đựng nóng nhiệt đới, lại không có khả năng thích ứng với cái lạnh vùng Nam-Bắc cực. Khi chiếm đóng Formosa (Đài Loan) –dù không phải là vùng nhiệt đới, Nhật vẫn không thành tựu được vai trò thực dân nữa là. Trong khi da vàng Tàu, dù cho có di cư đến vùng Siberia họ vẫn có khả năng thích ứng và chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt như thường. Vì sao vậy? Stoddard trích lại nhận xét của Doctor Wu-Ting-Fang: “Kinh nghiệm đã xác nhận rằng người Tàu là những người lao động ở khắp mọi nơi dễ dàng vượt xa mọi đối tác. Họ là những người siêng năng, thông minh và kỷ luật. Họ có thể làm việc dưới những điều kiện có thể chết người với một chủng tộc kém sức chịu đựng hơn; trong một cái nóng như rồng phun lửa, trong cái lạnh chỉ dành cho loài gấu bắc cực, cố sức chịu đựng suốt hàng giờ dài làm việc cực nhọc chỉ để đổi lấy vài bát cơm ăn.” (**)

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, người Nhật đã thấy được rằng họ không có quyền lợi sống còn ở các vùng nhiệt đới châu Á cũng như Trung Quốc; trái lại, Trung Quốc âm thầm bành trướng thực dân bằng con đường mậu dịch và di dân. Đối với Trung Quốc, những nguồn lợi thiên nhiên ngoài Á châu là Mỹ, Úc, một phần Châu Mỹ Latinh ở bờ biển phía Tây. Nhưng những vùng đất này đã được xác lập bởi người da trắng; do đó Tàu chỉ có thể phá vỡ các rào cản này bằng sức mạnh thôi. Đó là điều không tưởng, nên trước sau, Trung Quốc vẫn chỉ nhắm vào các nước da vàng của Á châu, từng bước làm chủ-tể thống lĩnh về mọi lãnh vực.

Điều tưởng chỉ là viễn tượng nói trên, nay đã thành thực trạng. Từng bước hiển lộ, Trung Quốc đang tìm cách khuất phục ý chí của Đảng Cộng Sản VN, bắt đầu từ các nhân vật trong Bộ Chính Trị. Trung Quốc có nhiều khả năng thành công, ngoại trừ một nước Việt Nam được dân chủ hóa chính trị cấp thời để nhận sự hậu thuẫn của Tây Phương (như Đài Loan hiện nay) mà giáo sư Cao Huy Thuần mơ ước. Trong khi đó, giả thiết về một hiện tượng mặc cảm tâm lý tự ti (lẫn tự tôn) yếu kém với người da trắng, có thể có một số người Việt (bao nhiêu phần trăm ?) sẽ hùa theo sức mạnh quân sự và vũ khí đang lên của Trung Quốc –thỏa hiệp bằng tinh thần muốn thấy một châu Á da vàng hùng cường đương cự lại với sức mạnh da trắng trong tương lai. Một hình thức “Đại Đông Á” của thế kỷ 21. Sự kiện này nếu có thể xảy ra, đích thực là một đại họa không riêng cho nước Việt Nam, các quốc gia “da vàng” dị biệt với Trung Quốc về văn hóa và ngôn ngữ, mà còn cho cả thế giới vào giữa thế kỷ này.

(còn tiếp)

nguyễn văn hóa
Giao thừa 13.02.2010

Vài chú thích:

(*) “The ethnic focus of the yellow world has always been China. Since the dawn of history this immense human ganglion has been the centre from which civilization has radiated throughout the Far East. About this "Middle Kingdom," as it sapiently styled itself, the other yellow folk were disposed-Japanese and Koreans to the east; Siamese, Annamites, and Cambodians to the south; and to the north the nomad Mongols and Manchus. To all these peoples China was the august preceptor , sometimes chastising their presumption, yet always instilling the principles of its ordered civilization. However diverse may have been the individual developments of the various Far Eastern peoples, they spring from a common Chinese foundation. Despite modern Japan's meteoric rise to political mastery of the Far East, it must not be forgotten that China remains not only the cultural but also the territorial and racial centre of the yellow world. Four-fifths of the yellow race is concentrated in China, there being nearly 400,000,000 Chinese as against 60,000,000 Japanese, 16,000,000 Koreans, 26,000,000 Indo-Chinese, and perhaps 10,000,000 people of non-Chinese stocks included within China's political frontiers.”
(by Lothrop Stoddard, A.M., Ph.D PART I - The Rising Tide of Color CHAPTER II YELLOW MAN'S LAND New York 1922)

(**) "Experience proves that the Chinese as all-round laborers can easily outdistance all competitors. They are industrious, intelligent, and orderly. They can work under conditions that would kill a man of less hardy race; in heat that would kill a salamander, or in cold that would please a polar bear, sustaining their energies, through long hours of unremitting toil with only a few bowls of rice." (Sách dẫn như trên, Quoted by Alleyne Ireland, "Commercial Aspects of the Yellow Peril," North American Review, September, 1900.)

Wednesday, February 10, 2010

Huế, tình yêu và nỗi buồn (Việt Hoàng)

Tết Canh Dần sắp đến, đọc bài “Huế, tình yêu và nỗi buồn” làm tôi rất buồn!
Bởi, cha tôi là người Huế và mẹ tôi cũng là người Huế. Nỗi buồn ngun ngút đầu tiên là nhớ lại vào tháng 7/2008, sau khi biết tôi đã bị “chơi khăm” về việc đứng tên chủ quyền căn nhà ở thành phố Hồ Chí Minh, thì bất ngờ nhận được cú phôn của chị TKL từ Đức gọi về. Tôi không hề cho chị ấy số phôn nhà, nhưng chị hỏi thăm ai đó, và gọi cho tôi. Lâu lắm rồi, tôi không liên lạc với chị TKL –nhưng, vài tuần lễ trước tháng 7 lúc ở nhà anh chị Cao Hữu Điền ở đường Hàng Me, thành phố Huế thì tôi nghe được tin Họa sĩ Thái Bá, anh của chị bị trọng bệnh và đang hấp hối. Tôi xin chị TKL được đến thăm anh ấy, nhưng chị từ chối lấy lý do anh ấy quá mệt và không muốn tiếp ai hết trong lúc này. Mấy ngày sau, tôi trở lại Sài Gòn, rồi trở về Mỹ mới nghe tin họa sĩ T.B. đã ra đi.

Vì cú phôn bất ngờ của chị TKL, nên tôi cũng có phần xúc động, nhất là trong lúc lòng đang bối rối liệu nên trở về Mỹ hay ra Huế kiếm một miếng đất nào ngoài đó, xây một cái nhà nhỏ rồi để sống và chết luôn ở đó. Hôm ấy, chị TKL hỏi tôi rất nhiều điều, nhất là về ông HVG. Biết gì tôi nói đó, nhận xét về ông ấy ra sao tôi nói vậy… Điều bất ngờ là chị TKL nói một câu trong điện thoại mà tôi tưởng chừng như đang vứt tai vứt tóc mình “Ui chao, Huế mình sao hiền quá đi. Quá hiền đi lận.” Nghe chị ấy nói mà tưởng chừng như chị đang thét lên, “Trời hại Huế của tôi rồi!” Rồi chị tiếp, “Thôi H. về lại Mỹ đi. KL từ Việt Nam trở lại Đức mà tưởng như trở lại thiên đường…” Câu nói ấy có tác động vào tôi trong nhiều góc cạnh của tình thế, nhất là làm cho cán cân quyết định trở về Mỹ của tôi nặng thêm lên. Có lẽ chị TKL không hiểu hết, nắm hết một nội tâm phức tạp của tôi trong lúc ấy. Có nhiều ước vọng và những điều tôi muốn làm, nhưng chẳng có phương tiện nào nằm trong bàn tay mình. Tôi không tiếc nuối của cải vật chất, kể cả việc bán đổ bán tháo căn nhà vô nghĩa kia và chấp nhận cho Chi Cục Thuế quận Tân Bình móc túi thêm 3 ngàn đô-la. Gần một trăm ngàn đô tiền Mỹ chưa làm được gì hết, muốn đem mẹ mình về để chết trên quê hương cũng không xong, giờ vơi còn một nửa. Tôi dự định trích một số tiền còn lại này mua một xe gạo chở về làng An Truyền (Huế) phân phát cho những người nghèo ở đó, nhưng lòng cứ bần thần nghĩ tới gặp lại cái hình ảnh bi thương ‘ngoài nớ’ như một người đạp xe ba gác còn trẻ, lưng còng xuống và xiêu vẹo về một phía do sức nặng những món hàng chất đầy phía trước, tôi thấy hành động phân phối vài chục, vài trăm tạ gạo…cho dân nghèo thật sự chỉ là nghĩa cử để lấy “tiếng thơm” riêng mình chứ chẳng giải quyết được việc gì. Tôi nản lòng. Thanh niên Huế thời “hiện đại” (có thể kể luôn cả thời “hậu hiện đại” trong tương lai nào đó) là hình ảnh của những người gầy guộc, đen đúa, hốc hác… chạy ăn từng ngày. Một thành phố “bất lực”, một xã hội “bất động” như những cây phượng già trong Đại Nội… chưa nói tới sự già nua, ngu muội, bẩn thĩu, hèn kém của những đầu óc đã bị thời đại loại bỏ đàng sau cả thế kỷ nhưng vẫn còn những cái nhếch mép gượng gạo, giả dối, giả tạo của niềm kiêu hãnh…

Sáng hôm nay, nhân bài viết của Việt Hoàng (có phải ông là một người gốc Huế? Sao mà thâm trầm, chân phương với sự thật đến dường ấy? Hay ông là một kẻ sĩ Bắc hà đất Thăng Long tội nghiệp cho những tấm “thân em gầy guộc nhỏ”?) làm cho tôi càng rã rời thêm nữa… nỗi buồn ngun ngút càng sâu nặng hơn. Những ngày còn chế độ Ngô Đình Diệm… thanh niên Huế luyện tập thể dục thể thao, võ nghệ với vóc dáng cường tráng đã lụi tàn theo từng hố chôn trong cát. Những trường trung học, đại học, những thư viện nhà, thư viện công, những cơ ngơi thí nghiệm y khoa, khoa học… ai xây dựng nên và ai đã thụ hưởng… mà giờ đây xem chừng cô vắng, lạnh lẽo như những bàn đá lạnh để xác người chết trong bệnh viện trung ương Huế…? Có thể những dòng văn của Việt Hoàng là một tiếng sấm sét thức giấc những kẻ u mê, hèn kém, nhưng cũng có thể đó là một điệu chiêu hồn cho một thành phố sẽ bị lịch sử vùi lấp, chôn đứng…như thành Đồ Bàn của người Chăm trong quá khứ thôi!
Đàng nào đi nữa, tôi vẫn phải cám ơn tác giả Việt Hoàng.

nguyễn văn hóa
Wednesday, February 10, 2010
____________________________

Tản mạn đầu Xuân
Huế, tình yêu và nỗi buồn


Việt Hoàng

“…Để Huế bớt vua thì dân chủ và minh bạch phải đặt lên hàng đầu và phải có sự giám sát của chính quyền trung ương…”

Huế, mảnh đất cố đô từng là trung tâm văn hoá-kinh tế-chính trị của Việt Nam một thời. Huế được biết đến nhiều qua thơ văn, qua những câu hò buồn man mác trên dòng sông Hương thơ mộng. Huế, một thắng cảnh du lịch luôn được nhắc đến trên các tạp chí du lịch và là điểm đến không thể thiếu được của khách muôn phương. Huế cũng là mảnh đất mà ai đến đó rồi đều không khỏi "bùi ngùi" khi xa nơi "nét dịu dàng pha lẫn chút trầm tư". Huế cũng là miền đất của lăng tẩm đền đài, của chùa chiền và phong cảnh hữu tình nên thơ. Huế cũng nổi tiếng bởi những cô gái xinh đẹp "tóc thề bay trong gió" mà "học trò trong Quảng ra thi, thấy cô gái Huế chân đi không đành…".

Huế đẹp, Huế thơ và Huế chỉ còn là… trong mộng. Huế là hành trang buồn cho những người con xứ Huế quyết tâm ra đi lập nghiệp nơi xứ người. Với họ, Huế tuy xa mà gần tuy gần mà xa. Huế là nơi để khi đi xa "mà thương, mà nhớ" hơn là để sống và gắn bó với nó.

Huế chìm lắng trong cuộc sống bề bộn hàng ngày và mấy hôm nay bỗng nhiên được nhắc đến "rộng rãi" trên các phương tiện thông tin đại chúng từ báo chí lề phải cho đến lề trái.

Tất cả được bắt đầu nhờ sự "xuất hiện" của ông bí thư tỉnh uỷ Thừa Thiên-Huế, Hồ Xuân Mãn. Người vừa được tuyên dương tại "Hội nghị điển hình tiên tiến của cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Ông có mấy câu phát biểu rất "thẳng và thật" như "lương của đảng viên chúng ta hiện nay cũng là từ tiền thuế của người dân", "nguy cơ của một Đảng cầm quyền là xa dân. Một khi Đảng cầm quyền đã xa dân, khi Đảng đã mất gốc thì Đảng sẽ không thể tồn tại". Ông hình như cũng là "nhân vật chính" trong bài "Đất cố đô có vua" đăng trên báo Lao Động cách đây 5 năm [1]. Những "thành tích" của ông Hồ Xuân Mãn đã gặp sự "phản biện" của ông Hà Văn Thịnh, giảng viên trường Đại học Huế, với bài viết "Xin hỏi ông Bí thư Tỉnh uỷ" [2].

Hy vọng rằng sự tranh luận giữa hai ông sẽ được tiếp tục. Tuy nhiên không phải bây giờ khi ông Hà Văn Thịnh nói ra thì mọi người mới biết, mới rõ về Huế. Ngoài những lăng tẩm, đền đài mà ông cha để lại, Huế còn được biết đến như là một trong những vùng nghèo và kém phát triển nhất nước. Huế cũng như hầu hết các thành phố miền Trung, có khí hậu rất khắc nghiệt. Mùa Hè nắng như đổ lửa, mùa Đông thì lạnh và mưa nhiều. Mưa của Huế kéo dài lê thê cả tuần, cả tháng. Mưa Huế "thối cả đất, trắng cả trời". Mưa Huế theo người dân đi vào trong cả giấc mơ. Việc sống chung với hạn hán, lũ lụt, gió bão đã trở thành chuyện thường ngày của người dân xứ Huế.

Có lẽ do ảnh hưởng của thiên nhiên và di sản văn hoá thời phong kiến để lại nên con người của Huế mang nhiều tính cách "xưa" như gia trưởng, bảo thủ, an phận, đủng đỉnh, nói nhiều làm ít, thanh niên không có chí tiến thủ… Rất không may cho Huế là không chỉ người dân thường có những tính cách "cũ xưa" đó mà ngay cả lãnh đạo và chính quyền Huế cũng bị nhiễm nặng tính cách đặc trưng "rất Huế" đó. Ai cũng phải thừa nhận một điều là Huế rất ít thay đổi. 10 năm, 20 năm nay Huế vẫn thế: vẫn buồn, vẫn thơ mộng và vẫn nghèo.

Chính quyền Huế không cần đi đâu xa mà chỉ cần vượt qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là biết được cần phải học, phải làm những gì. Đà Nẵng đã vượt xa Huế để trở thành một trung tâm kinh tế của Miền Trung. Cả thành phố Đà Nẵng là một công trường sôi động, dẫn đầu khu vực về thu hút đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Các khu resort (nghỉ mát) ven biển Mỹ Khê, gần khách sạn Furama được rao bán từ vài trăm ngàn đến hàng vài triệu đôla mỗi cái, đủ biết đầu tư ở Đà nẵng lớn đến đâu.

Huế có điểm mạnh gì để có thể phát triển? Tiềm năng của Huế lớn hay nhỏ?

Huế có nhiều điểm mạnh, tiềm năng có thể phát triển được là:

Du lịch. Đây là nguồn thu nhập chủ yếu cho chính quyền và nhân dân Huế, tuy nhiên đầu tư của chính quyền vào cơ sở hạ tầng du lịch còn rất kém và thiếu đồng bộ. Ngoài danh lam thắng cảnh "tự có", những địa điểm nghỉ ngơi, ăn chơi, giải trí của khách du lịch còn rất thiếu, nếu không muốn nói còn rất yếu. Buổi tối, nhất là mùa đông, sau 9 giờ tối du khách đến Huế không biết đi đâu và làm gì. Con người Huế thì hiền lành, thật thà nhưng chưa cởi mở và năng động, nhiệt tình trong việc phục vụ khách du lịch chưa được thể hiện đúng mức. Dịch vụ về du lịch Huế thua xa Đà Nẵng, Nha Trang hay Bình Thuận. Câu hỏi đặt ra là chính quyền Huế có quyết tâm phát triển Huế hay không, nghĩa là có thật sự cởi mở và tạo điều kiện để du lịch Huế phát triển hay chưa?

Giáo dục. Huế với trường Quốc Học nổi tiếng và hệ thống các trường Đại học lâu đời, như Đại học Y, Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp… sẽ là điểm hẹn của sinh viên, các bậc phụ huynh cũng yên tâm vì Huế có rất ít tội phạm và tệ nạn xã hội. Vật giá ở Huế cũng rất rẻ so với các nơi khác, dân Huế rất hiếu học, cám dỗ của xã hội ít. Tuy nhiên để ngành giáo dục Huế phát triển thì tự thân các trường phải thay đổi tư duy giáo dục, mạnh dạn áp dụng các phương pháp mới để các sinh viên tốt nghiệp ở Huế có đầy đủ năng lực và năng động đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng khắt khe của xã hội.

Y tế. Dẫn đầu bởi bệnh viên trung ương Huế với một đội ngũ bác sĩ có chuyên môn cao, lại có trường Đại học Y hỗ trợ, cộng với chi phí rẻ, dịch vụ y tế tại Huế có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh. Tuy nhiên Huế rất cần sự hỗ trợ của nhà nước vì mức sống của dân chúng miền Trung nói chung và Huế nói riêng còn rất thấp, do đó chi phí khám và chữa bệnh không thể áp dụng cao như tại các nơi khác. Cần khuyến khích những trung tâm nghiên cứu y học Việt Nam và quốc tế đặt ở Huế vì khí hậu nóng và ẩm ướt tại miền Trung rất thuận lợi cho việc thử nghiệm các loại vi khuẩn và các loại bệnh lạ nhiệt đới.

Thể dục thể thao. Huế chưa thực sự đầu tư cho thể dục thể thao một cách cần thiết. Huế hầu như vắng bóng trên các sân chơi thể thao trong nước, các khu thể thao hiện đại vẫn chưa thấy xuất hiện. Ngoài việc nâng cao thể lực cho người dân, các khu thể thao còn phục vụ cho khách du lịch, cho sinh viên và học sinh trên địa bàn Huế. Khu vực bờ biển Lăng Cô là địa bàn lý tưởng để khai thác dịch vụ thể thao biển cả, qua đó phát triển du lịch.

Nghiên cứu khoa học, sáng tác nghệ thuật. Sự yên bình của Huế (và Đà Lạt) rất thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học, và sáng tác văn học nghệ thuật. Sống bên cạnh một khung cảnh hữu tình, tâm hồn người Huế rất phóng đãng và qua đó có thể sáng tác những tác phẩm hay và có giá trị văn hoá và nghệ thuật cao. Rất tiếc, tạp chí Sông Hương một thời nổi tiếng không còn được nhắc đến.

Có phát triển được những tiềm năng vừa kể trên hay không, cái đó còn phụ thuộc rất nhiều vào sự năng động và cởi mở của chính quyền và dân chúng địa phương. Nếu người dân Huế vốn đã bảo thủ và ngại thay đổi thì chính quyền và lãnh đạo tỉnh phải làm gương đi trước và ủng hộ mạnh mẽ ý kiến và sáng kiến của những người tiên phong. Phải tạo điều kiện thực sự cho những doanh nhân và doanh nghiệp vào Huế đầu tư để phát triển thành phố thay vì tổ chức những festival, họp báo và kêu gọi khơi khơi trên báo chí và truyền hình.

Huế có một tiềm năng rất lớn về con người, đặc biệt là những người con xứ Huế đi xa lập nghiệp nơi đất khách quê người. Rất nhiều người con của Huế đã thành công lớn trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Chưa nói đến cộng đồng người Huế ở nước ngoài, chỉ riêng dân Huế ở Sài Gòn và Hà Nội thôi cũng đã là một lực lượng rất lớn. Làm sao để họ quay về và đầu tư vào Huế không phải là bài toán quá khó nếu chính quyền Huế thật sự cởi mở và thực lòng muốn xây dựng Huế tốt hơn.

Sự nỗ lực của ông chủ tịch tỉnh Thừa Thiên-Huế, Nguyễn Ngọc Thiện, một người từng du học ở nước cộng hòa Ukraina (Liên Xô cũ) trong nỗ lực kêu gọi đầu tư về Huế rất đáng ghi nhận. Thế nhưng việc đầu tiên mà ông Nguyễn Ngọc Thiện cần làm là phải có những chủ trương, chính sách và sự đồng thuận trong chính quyền trước đã, tránh tình trạng "ông nói gà bà nói vịt", gây khó dễ cho các nhà đầu tư vào Huế.

Chính quyền ở trung ương cũng phải dành những quan tâm và ưu tiên nhất định cho Huế, tránh tình trạng bỏ rơi và quên lãng Huế như hiện nay. Thật là vô lý và bất công khi có những công trình và dự án ở Huế mà các doanh nghiệp và người dân Huế không được tham gia, lý do là vì các dự án đó đã "được" các công ty ở Hà Nội "thắng thầu" và sau đó các công ty thắng thầu đó đem quân của họ vào thi công, ví dụ công trình thuỷ điện Bình Điền.

Tình trạng bè phái trong nội bộ đảng và chính quyền các cấp, các ban ngành ở Huế chắc chắn là rất lớn và tỉ lệ nghịch với sự nghèo khổ của dân Huế. Vì Huế là đất Cố Đô nên ai cũng muốn "làm vua". Để Huế bớt vua thì dân chủ và minh bạch phải đặt lên hàng đầu và phải có sự giám sát của chính quyền trung ương.

Đây lại là một bài toán khó cho đến nay vẫn chưa có lời giải. Nỗi "xấu hổ vì mình là người Huế" mà ông Hà Văn Thịnh, giảng viên sử học trường Đại học Huế, nói ra chắc sẽ còn kéo dài.
Việt Hoàng

(Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)
XIN HỎI ÔNG BÍ THƯ TỈNH UỶ
HÀ VĂN THỊNH

Sau phát biểu của bí thư tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế Hồ Xuân Mãn về những thành tích của địa phương được đăng tải trên một số tờ báo, một nhà Sử học muốn ông Mãn nói rõ hơn, cụ thể hơn về những thành tích đó.

Để rộng đường dư luận cũng là tôn trọng tính đa chiều của truyền thông, Tuần Việt Nam đăng ý kiến thể hiện quan điểm riêng của ông Hà Văn Thịnh, giảng viên trường Đại học Huế.

Trong mục “Chào buổi sáng” của báo Thanh Niên, số ra ngày 25.1.2010, có đăng tải những phát biểu của Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế Hồ Xuân Mãn. Ông Mãn cho rằng đầu nhiệm kỳ, người nghèo ở tỉnh TTH là 28%, nay còn 8%; tỉnh đã lo cho 31.000 đồng bào dân tộc có nhà “4 cứng” và; nhất là tỉnh TTH luôn “nói đi đôi với làm”. Nếu đúng như thế thì thật là diệu tuyệt. Nhưng vì là một nhà sử học, nói cái gì cũng phải có sách, mách có chứng nên tôi muốn ông Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh TTH cho biết rõ – cụ thể hơn những thành tích rất đáng trân trọng ấy.

1. Nếu TTH đã giảm được trên 70% số hộ nghèo chỉ trong một nhiệm kỳ lãnh đạo thì đó là một kỷ lục, không chỉ đối với Việt Nam mà là cả thế giới! Đây là thành tích cần phải được nhân rộng cho 62 tỉnh, thành khác học tập. Và, tôi cho rằng nếu bỏ qua điều này là một sự lãng phí tài năng ghê gớm. Vấn đề là ở chỗ dư luận muốn biết bằng cách nào, kinh phí lấy từ nguồn nào, các công đoạn của nó được tiến hành ra sao; bởi vì trên thực tế, không thấy tỉnh TTH có những đổi thay đột biến để tạo nên đột biến ghê gớm trên?

2. Chỉ cần ngồi ở một quán cóc trên đường Lê Hồng Phong – trung tâm thành phố, khoảng một giờ đồng hồ, bất kỳ ai cũng được “tiếp xúc” với 10-15 người ăn xin, bán vé số. Họ có phải là người nghèo hay không? Tại sao TTH có tỷ lệ ăn xin và bán vé số cao nhất nước trong khi người nghèo đã giảm nhanh đến như thế? Xin nhấn mạnh rằng cũng trong chừng ấy thời gian vào buổi chiều tối, sẽ “bị” không ít hơn 10 đứa trẻ chèo kéo mua đậu phụng rang, bánh phồng tôm. Những đứa trẻ đó chỉ khoảng 8-11 tuổi.

3. Tiêu chuẩn “nghèo” mà ông Bí thư Tỉnh uỷ “xếp hạng” là dựa trên căn cứ nào? Theo các công trình nghiên cứu của Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn trường Đại học Khoa học Huế thì tỉnh TTH là một trong những địa phương có tỷ lệ người nghèo cao nhất nước. Xin nhớ rằng nếu thu nhập bình quân dưới 1.000 USD/người/năm, thì vẫn thuộc dạng nghèo; còn dưới 500 USD thì chắc chắn là thuộc diện đói nghèo. Cũng xin nhấn mạnh rằng tiêu chuẩn nghèo mà tỉnh TTH đang cố tính là theo Thông tư số 170/TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 8.7.2005, trong đó quy định rằng mức nghèo là dưới 200.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 260.000 đồng/người/tháng ở thành phố. Cách tính đó đã lạc hậu vì ai cũng biết chẳng một ai (kể cả trẻ con) có thể sống nổi ở một thành phố với thu nhập nửa USD/ngày (!) Đó là chưa muốn nói rằng số liệu mà ông Bí thư Tỉnh uỷ đã đưa ra là không chính xác (tuy vẫn theo cách tính để lấy thành tích của ông). Số liệu của Sở Lao động – Thương binh – Xã hội TTH cho biết năm 2009, TTH có 21.168 hộ nghèo với 75.945 nhân khẩu, chiếm 8,85% (ông Bí thư đã bớt đi 0,85%). Thế nhưng số người “cận nghèo” (một cách nói để giảm thiểu sự sút giảm của thành tích. Trên thực tế là chẳng khác gì nhau. Nghèo và không nghèo chứ không thể có chuyện “cận nghèo”), là 5,75%. Cộng lại, TTH, tuy tính toán khác rất xa với thực tế, vẫn có 14,6% người rất nghèo.

4. Các dân tộc ít người ở tỉnh TTH có gần 50.000 người. Ông Bí thư Tỉnh uỷ Hồ Xuân Mãn cho rằng “tỉnh đã lo cho 31.000 đồng bào dân tộc có nhà “bốn cứng” là chính xác hay không? Được biết, nhà của đồng bào được xây dựng theo Đề án 135 của Chính phủ và kinh phí để thực hiện là do nguồn từ Nhà nước và các cơ quan hợp tác quốc tế. Tại sao tỉnh TTH có thể nói là chính họ đã lo cho đồng bào? Mặt khác, 40% còn lại vẫn chưa có nhà “bốn cứng” là nghĩa làm sao khi chỉ có 8% người nghèo? Đó là chưa nói chuyện xây nhà xong nhưng trong đó chẳng có gì, thu nhập của người dân không thay đổi gì thì quả thật, chỉ mới đem cái áo khoác lên cho người nghèo bớt xấu một chút mà thôi!

5. Người viết bài này đã sống và làm việc ở tỉnh TTH 33 năm, đã chứng kiến sự thay đổi của nhiều lãnh đạo nhưng chưa hề thấy bất kỳ sự thay đổi thực sự nào từ ý tưởng, cách làm việc của những người lãnh đạo ấy. Tôi sẵn sàng tranh luận với bất kỳ vị lãnh đạo nào về đề tài này. Chỉ cần bước qua đèo Hải Vân là thấy xấu hổ vì mình là người Huế. Sự đủng đỉnh của Huế, tính bảo thủ muôn đời của nó là điều ai cũng biết. Thật là buồn khi mình gắn bó với một quê hương mà quê hương ấy chỉ thay đổi gọi là, phát triển gọi là… Là người dân, rất ước mong rằng các vị lãnh đạo hãy nói được sau khi đã làm được. Xin ông Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh TTH trả lời những câu hỏi của tôi.

Nguồn: tuanvietnam.net

© Thông Luận 2010

Saturday, January 30, 2010

Hóa' s Blog: Mặt thật của “nhà phê bình” Đặng Tiến!

Hóa' s Blog: Mặt thật của “nhà phê bình” Đặng Tiến!

Mặt thật của “nhà phê bình” Đặng Tiến!

Sau khi đọc 3 bài viết về ông Đặng Tiến, tôi xin nghiêng mình cám ơn bác Trần Văn Tích, hai ông/anh Vương Thế Lan và Huỳnh Văn Nhơn, đồng thời phải cám ơn các ý kiến bình luận hổ trợ cho ba cây bút nói trên.
Ôi những “tên tuổi” cách mạng của Hồ Chí Minh gốc Nam Ngãi, chúng ta cần phải biết “sợ hãi” họ!

Nguyễn Văn Hóa
Chủ nhật 30/01/2010


Mấy bài viết làm bộc lộ cái mặt thật của “nhà phê bình” Đặng Tiến!!

Xin mời quý độc giả cùng đọc ba bài link theo sau:

1. Vương Thế Lan: Đặng Tiến và nỗi băn khoăn: làm sao cho khỏi bị đào thải [đối thoại, tienve.org]

http://damau.org/archives/10620

2. Huỳnh Văn Nhơn: Khi trí thức táng tận lương tâm [đối thoại, tienve.org]

http://tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork&artworkId=9733

3. Trần Văn Tích: Trường hợp Đặng Tiến – Nam Chi:

http://www.tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork&artworkId=9748

Tuesday, January 26, 2010

Nhân Tết Canh Dần (2010) tưởng niệm đồng bào Huế bị thảm sát trong Tết Mậu Thân (1968)

Tết Mậu Thân 1968, VC Tàn Sát Ðồng Bào Vô Tội Tại Huế

MƯỜNG GIANG

Cuối tháng 12-1960, Hồ Chí Minh thành lập tại Hà Nội cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN), dùng làm bình phong lừa bịp thế giới về âm mưu cưởng chiếm VNCH bằng quân sự. Ðể hoàn thành giấc mộng nhuộm đỏ toàn cõi VN, Hà Nội bắt các cán binh, bộ đội gốc Miền Nam đã tập kết ra Bắc năm 1954 phải hồi kết , qua đường mòn Trường Sơn. Số này sẽ kết hợp với các cán binh nằm vùng năm xưa và một nhóm trí thức khoa bảng đang bất mãn chính phủ Ngô Ðình Diệm. Tất cả sẽ dấy lên một phong trào tranh đấu giả tạo, để lật đổ chính quyền hợp pháp của Miền Nam bằng kế hoạch ba mặt giáp công. Ðó là chính trị, binh vận và quân sự của Miền Bắc.

Cuộc binh biến ngày 1-11-1963 với kết quả đưa VNCH vào tình trạng vô chính phủ và gây nên những xáo trộn chính trị triền miên suốt những năm 1964-1967. Nắm lấy thời cơ vàng ròng, mà Hồ Chí Minh cho là đã chín mùi tại Miền Nam, nên đầu năm 1964, đảng ra lệnh tập trung các cán bộ Y tế, Giáo dục, Văn hóa Thể dục Thể thao, Nhà văn, Nhà báo, Nông nghiệp, Bưu điện, Tiếp vận... khắp đất Bắc để học tập, huấn luyện, lên đường vào Nam tiếp tay với bọn Việt gian bản địa, dấy lên phong trào cướp chính quyền ở Huế, Ðà Nẵng, Sài Gòn và nhiều thành phố khác. Ðợt đó có 300 người bị tập trung tại Trường Huấn Luyện Ðặc Biệt ở Phú Thọ, mang tên là Ðoàn K-33.

Ngày 22-12-1964 lớp học bế mạc, tất cả các học viên đều lên đường vào Nam. Trong số cán bộ trên, hiện còn nhiều người sống sót và được đảng thưởng công rất hậu như Nguyễn Trung Hậu (Bí thư tỉnh ủy Thuận Hải), Trần Ngọc Trác (Chủ tịch tỉnh Thuận Hải), Ngô Triều Sơn (Q.Bí thư tỉnh ủy Bình Thuận), Nguyễn Tường Thuật (Chủ tịch tỉnh Phú Yên)... Ngoài ra còn có các nhạc sĩ, nhà văn như Phan Huỳnh Ðiểu, Thuận Yến, Lê Anh Xuân, Tô Nhuận Vỹ, Dược sĩ Nguyễn Kim Hùng, Tiến sĩ Võ Quảng, Nguyễn Thới Nhậm, Nguyễn Khoa Ðiềm..

Lâu nay nhiều người thắc mắc về sự liên hệ giữa Nguyễn Khoa Ðiềm và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thậm chí không ít người quả quyết cả hai chỉ là một. Nhưng dù là một hay hai thì chúng vẫn là những ác nhân thiên cổ (trong đó có Nguyễn Ðắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan..) đã tàn nhẫn dã man mất hết nhân tính khi ra lệnh chôn sống, đập đầu và tùng xẻo hàng ngàn đồng bào vô tội tại Huế vào những ngày Tết Mậu Thân (1968).

Giống như những người Nhật còn sống sót khi đã hứng hai trái bom nguyên tử của Mỹ năm 1945. Hiện có một số lớn nạn nhân may mắn sau thảm kịch Tết Mậu Thân Huế 1968, đã quả quyết thủ phạm chính cuộc tàn sát dã man lúc đó là những thành phần trong mặt trận Liên Minh Dân Tộc Hòa Giải do Hà Nội dựng lên tại Huế vào ngày mồng ba tết (1-2-1968) gồm Lê văn Hảo, Hoàng phủ ngọc Tường, Hoàng phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, Nguyễn Ðoá, Ðào thị Xuân Yến, Hoàng phương Thảo.. Tất cả bọn nam nữ ác quỹ lúc đó đều thuộc thành phần thượng lưu trí thức, ăn trên ngồi trước, gì gì cũng thừa mứa.. chỉ thiếu có máu và xác người, nên phải giết đồng bào vô tội để cùng vui bữa tiệc thịt người.

Bia đá trăm năm có thể bị hũy diệt bởi con người và thời gian, lịch sử cũng vậy có thể bị thay đen đổi trắng bởi bọn cầm quyền và đám bồi bút vô loại nhưng bia miệng thì không bao giờ bất biến bởi chúng là những tác phẩm vô hình không chữ nghĩa. Ngoài ra còn có luật trời và tòa án lương tâm, nhất là đối với những người có lòng tin tôn giáo ‘ Quả Báo Nhản Tiền’ . Nên nay có mặc áo vàng, áo đỏ, áo lam , áo đen hay ở trần đóng khố thì rốt cục cuối đời cũng phải mặc áo quan để về với đất. Tất cả hãy lấy bọn ác tặc trên để sám hối trước khi ‘ về nguồn ‘ sửa soạn tái sinh và cơ duyên xấu hay tốt của kiếp tới, đều do kiếp này gieo quả.

Ai là người miền Nam VN, đã được sống sót và đầu thai trở lại khi may mắn đến được bờ đất hứa tự do, chắc không làm sao quên được sự dã man có một không hai của cán binh VC tại bất cứ nơi nào khi chúng hiện diện trước tháng 4-1975. Sau đó là những cảnh xử giảo các thành phần ‘ Quân Cán Cảnh VNCH ‘ qua cái gọi là Tòa Án Nhân Dân. Hình ảnh Cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng Chương Thiện tại pháp trường Cần Thơ năm nào, bị VC bẽ gập gảy xương sống rồi dùng mã tấu đâm nát cơ thể trước khi bắn, vào những ngày đầu tháng 5 mất nước. Cảnh tượng dã man đó làm sao xóa được, để mà hớn hở hòa hợp, về nguồn và nối vòng tay lớn với giặc nay đã mất hết nhân tính quốc hồn, buôn, bán nước ?

Lịch sử VN đã bị đảo lộn vì sự bóp méo của ngòi bút trí thức. Dân tộc VN bị mất chủ quyền đất nước và quyền sống vào tay ngụy quyền Hà Nội, cũng chỉ vì mù quáng tin thật vào những đảo lộn của lịch sử và hậu quả dối trá trên nay vẫn là món hàng thời thượng không mất giá. Hồ Chí Minh một đời bán nước hại dân làm ngàn tội ác, nay vẫn được thành BỤT ngồi trên bồ đề trong chùa, trước các đấng thần linh. Lũ ác gian ăn ốc, dân lành VN đổ võ từ thế hệ này cho tới thế hệ khác và tới bao giờ mới chấm dứt ? VN là như vậy đó, thì làm sao mà về nguồn để tìm lại bản sắc dân tộc Hồng Lạc ngàn đời, nay đã bị tức tưởi tanh hôi dưới hố sâu máu và xác người dân Việt đói nghèo trong ngục tù nô lệ VC ?

+ LỘT TRẦN NHỮNG BÓP MÉO XUYÊN TẠC VNCH :

Ngày nay những luận điệu điêu ngoa láo bịp, bẻ cong ngòi bút của đám truyền thông báo chí phương tây mà phần lớn là Mỹ nhắm vào VNCH đã trở nên lổi thời, sau khi Bắc Việt công khai xé bỏ hiệp ưúc ngưng bắn mà chúng đã ký với Hoa Kỳ vào năm 1973. Viết về trận chiến Tết Mậu Thân (1968) Sir R Thompson, nhà bỉnh bút người Anh đã dựa vào lời kể của Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Hoàng Văn Hoan, Viễn Phương.. viết “ Ðây là ý đồ của Võ Nguyên Giáp, muốn tạo sai lầm chiến thuật, để đẩy VC miền Nam vào chổ chết. Có vậy Hà Nội mới đưa được cán binh Bắc Việt vào Nam trám chổ các đơn vị địa phương vừa bị QLVNCH và Ðồng Minh tiêu diệt , để dành lấy địa vị độc tôn sau cuộc chiến “.

Sự thật là vậy nhưng hệ thống truyền thông Hoa Kỳ đã đổi trắng thay đen, biến thất bại quân sự của CS tại miền Nam thành một chiến thắng chính trị trên đất Mỹ, gieo sự nghi ngờ tới tầng lớp dân chúng về những công bố của chính phủ trong cuộc chiến VN. Từ đầu năm 1967, Hà Nội đã ban hành nghị quyết số 13, kêu gọi đồng bào miền Nam ‘ đồng khởi ‘ để dành thắng lợi trong một thời gian ngắn. Sỡ dĩ có hiện tượng này, là vì Ðảng quá tin tưởng vào cảnh rối ren đang xảy ra khắp VNCH nhất là tại miền Trung. Vin vào đó nên Lê Duân kết luận rằng khi phát động cuộc tổng công kích vào dịp tết Mậu Thân (1968), dân chúng miền Nam sẽ đứng dậy theo chúng và lật đổ chính quyền như họ đã từng làm vào ngày 1-11-1963.

Do ảo tưởng trên, Hà Nội đã chuẩn bị sẳn chính quyền tương lai cho miền Nam bằng cái gọi là ‘ Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ‘ để làm mồi danh lợi câu bọn trí thức khoa bảng phản thùng VNCH. Ðồng thời dùng liên minh trên để thay thế Mặt Trận Ma GPMN đang hấp hối sắp bị tiêu diệt. Ngoài ra Duẫn còn ban lệnh cho tất cả cán binh bộ đội miền Bắc, thẳng tay tàn sát ‘ ngụy quân ‘ để làm tan rã ‘ ngụy quyền ‘.Kết quả VC đã gây nên một cuộc tàn sát có một không hai trong giòng sử Việt, mà ghê gớm nhất ở cố đô Huế.

Tất cả đều là ảo tưởng, vì chỉ có Huế bị giặc chiếm lâu ngày nên đồng bào không chạy thoát được. Những nơi khác tại VNCH kể cả hai thành đồng của ‘bác‘ là Phan Thiết và Bến Tre, cũng chẳng thấy ai đứng dậy đồng khởi. Ngược lại ở đâu đồng bào đều di tản vào các vùng do QLVNCH trấn giữ, để tránh bị thảm sát vì giặc và bom đạn. VC còn hoang tưỏng tới độ cho rằng lính miền Nam đánh thuê cho Mỹ, nên không có lý tưởng do đó sẽ buông súng đầu hàng ‘ cách mạng ‘ chống lại chánh quyền. Nhưng đã không có chuyện gì xảy ra và dù quân số tại hàng rất ít. Thế mà QLVNCH vẫn giữ vửng được phòng tuyến và phản công sau đó để chiếm lại hầu như tất cả những lảnh thổ bị giặc cưởng chiếm ban đầu.

Dịp này Duẩn bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh, Ðặng Kim Giang.. đồng thời sang chầu Nga, Tàu mua chịu bom đạn súng ống. Riêng Mao tăng viện cho 300.000 quân phòng không và công binh, để giúp phòng thủ đất Bắc từ Thanh Hóa trở ra. Theo Xuân Sách thì năm 1967, không quân Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt dữ dội. Kế hoạch tổng công kích Tết Mậu Thân nhằm tấn công thẳng vào VNCH, cũng để giải vây cho Hà Nội.

Tất cả các kế hoạch đột kích miền Nam được chuẩn bị rất chu đáo và bí mật, trong đó có công tác của đội văn công trung ương. Vì quá tin tưởng sẽ chiếm được VNCH nên Duẫn ra lệnh cho Xuân Sách, Huy Du, Vũ Trọng Hối, Huy Thục, Doản Nho.. dàn dựng một bản đại hợp xướng với tiêu đề ‘ xuân chiến thắng ‘ , được nữ ca sĩ Kim Oanh hát và thu vào băng nhựa để phát ra khắp miền Nam sau khi chiếm được Sài Gòn vào giờ G.

Nhưng năm Mậu Thân 1968 vĩnh viển không có giờ G để đám Việt gian có dịp hát. Vì vậy cuối cùng Ðảng chỉ xài có phần 3 của bảng hợp xướng để tuyên truyền qua tựa ‘ VN trên đường chúng ta đi ‘.Chính Võ nguyên Giáp là người đã soạn thảo kế hoạch còn Hồ Chí Minh thì ban lệnh tổng tấn công , qua bài thơ Máu nay vẫn còn :

‘ Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
thắng trận tin vui khắp mọi nhà
Nam-Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên ! toàn thắng ắt về ta ‘

Giáp cũng là tác giả vụ ‘ đổi lịch mới ‘ từ 1-1-1968, để cho ngày mùng một Tết trên đất Bắc trùng với giờ giao thừa tại miền Nam, hầu đánh lừa dư luận để giữ kín bí mật quân sự. Sau tháng 5-1975, VC khoe thành tích và ăn mừng chiến thắng Mậu Thân hằng năm nhưng năm 1969, khi Giáp được một nhà báo phương tây phỏng vấn, thì cũng chính miệng hắn chối là Hà Nội không hề hay biết gì về cuộc chiến Tết Mậu Thân xảy ra tại Miền Nam. Tư cách của các chóp bu đảng CS là thế đó, nên khi chúng nắm được quyền lảnh đạo đất nước, VN không đói nghèo hèn nhục trước giặc Tàu và thế giới, thì mới là chuyện lạ.

+ THẢM SÁT TẾT MẬU THÂN TẠI HUẾ :

Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền Trung VN, có diện tích 5054km2 và dân số tính đến năm 2000 là 1.045.134 người với các quận Phong Ðiền, Quảng Ðiền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới và Nam Ðồng. Tỉnh Lỵ là thành phố Huế hiện nay có diện tích 380km2 với 209.043 người. Là cố đô của nhà Nguyễn (1802-1945), Huế muôn đời vẫn đẹp và thơ mộng, mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc, nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc VN, nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna nước Columbia vào tháng 12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ đã công nhận Huế là di sản văn hóa của nhân loại cần bảo tồn

Ngược dòng lịch sử, từ năm 1366 Huế đã là thủ phủ của Ðàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân cuả Chiêm Thành, dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Ðại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Những gì còn lại của Huế hôm nay chỉ là một phần công trình của cố đô trong đống gạch vụn do Việt Cộng và bọn Việt Gian VNCH tàn phá vào Tết Mậu Thân 1968. Ngoài ra Huế còn nhiều nét tiêu biểu khác như chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, chợ Ðông Ba, với trường Quốc Học cổ kính nằm cạnh bờ sông với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi độ hè về, nuí Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan cùng tuế nguyệt.

Từ năm 1967 Hà Nội đã quyết định tổng tấn công VNCH vào những ngày hưu chiến Tết Mậu Thân 1968. Trong số 44 tỉnh, thị tại miền nam bị đột kích, thì Saì Gòn và Huế là quan trọng hơn cả. Vì trại Lực lượng đặc biệt A-Shau rút đi, nên thung lũng A Shau bị bỏ ngõ và VC đã lợi dụng dịp này để chuyển một số lớn bộ đội vào tấn công cố đô với sự dẫn đường chỉ lối của đám Việt Gian tại Huế. Trận chiến mở màn vào sáng mồng hai Tết nhằm ngày 31-1-1968, bằng hai cánh quân : Ðoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1,K2,K6 và K12 từ phía bắc bên tả ngạn sông Hương, tấn công BT/.SD1BB tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Ðại Nội. Ðoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A,K4B,K10 và K21 từ phía nam bên hửu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở hành chánh phía nam. Ngoài ra còn có Ðoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416,418 hợp với một đơn vị mang tên Ðường 12 tấn công mặt tây.

Cũng nói thêm là VC đã lợi dụng những xáo trộn tại Huế trong các năm 1965,1966, xâm nhập hoạt động cũng như móc nối dụ dổ một số học sinh,sinh viện, quá mê thầy mà phản nước hại dân. Thật ra mặt trận quan trọng nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, vì vậy Hà Nội bất chấp máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lịnh cho đám tàn binh phải cố thủ trong Ðại Nội dù thực trạng bi thảm tuyệt vọng bởi các vòng vây của quân lực Hoa Kỳ và VNCH.

Phụ trách công tác tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng kim Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám thị trường Quốc Học là Nguyễn Ðoá. Ngoài ra còn có Nguyễn trung Chính, Nguyễn hửu Vân (giáo sư trường Âm nhạc kịch nghệ), Phan Nam, Nguyễn Thiết. Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh tại Hà Nội cho biết đã lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê văn Hảo làm chủ tịch, còn Ðào thị xuân Yến và Hoàng phương Thảo làm phó. Ngoài ra còn có cái Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968) cũng do Lê văn Hảo, tiến sĩ giảng sư về nhân chủng học tại Ðại Học Huế và Sài Gòn làm chủ tịch liên minh.

Theo Hảo vì muốn trốn lính, nên 1953 qua Pháp du học nên bị tiêm nhiểm chủ nghĩa cọng sản của Trần văn Khê, Nguyễn khắc Viện. Vì vậy vào các năm 1965,1966 dù đang sống trong cảnh tột đỉnh giàu sang, chức trong, lại được trốn lính nhưng vẫn tán tận lương tâm, theo VC nằm vùng là Hoàng phủ ngọc Tường và Tôn thất Dương Tiềm vào MTGPMN và ra bưng cuối tháng 12/1967. Trong Liên Minh Ma này còn có Hoàng phủ ngọc Tường, Thích Ðôn Hậu, Nguyễn Ðoá, Hoàng phủ ngọc Phan, Nguyễn đắc Xuân.. Tóm lại mặt trận được chỉ huy tổng quát bởi Lê Minh, trưởng ban an ninh khu ủy Trị Thiên, còn Tống hoàng Nguyên và Nguyễn đình Bảy Khiêm chỉ lo về phần thủ tiêu, giết người vô tội tại Huế. Theo Bảy Khiêm , chính Y đã giết rất nhiều sĩ quan và cán bộ,công chức VNCH bị kẹt tại Huế, cùng các giáo sư người Ðức dạy tại Ðại học Y Khoa, qua chỉ điểm của VC nằm vùng và sau này Lê Minh lẫn Bùi Tín đều xác nhận Việt Cộng đã tận tuyệt tàn sát vô nhân đạo đồng bào vô tội tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968.

Ngay từ đầu nhờ lợi dụng dịp hưu chiến, nhiều đơn vị cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đã chiếm được hầu hết các cơ sở hành chánh, khu Ðại Nội, chợ Ðông Ba, cửa Thượng Tứ, An Hòa, Chánh Tây.. ngoại trừ BTL/SD1BB tại đồn Mang Cá, cơ sở MACV,Tiêu khu Thừa Thiên, Ðài phát thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm soát.

Mồng ba Tết (1-2-1968) một ngày sau đó, Chiến đoàn Dù với 2 tiểu đoàn 2,7 và chi đoàn 2/7 Thiết giáp từ phía bắc vào giải vây Huế. Hai đại đội TQLC Hoa Kỳ cùng 4 chiến xa M48 trong Chiến đoàn X-Ray đóng tại Phú Bài cũng về Huế tăng cường phòng thủ MACV. Chiều ngày mồng 4 Tết, TÐ 9 Dù được trực thăng vận vào chiến trường, từ đây cho tới ngày 12-2-1968 , cuộc chiến trở nên khốc liệt bạo tàn với sự tổn thất nhân mạng rất cao của cả hai phía.

Cùng ngày đó Chiến đoàn A Thủy quân lục chiến VN gồm các tiểu đoàn 3,4,5 thay thế chiến đoàn Dù, tiếp tục giải tỏa áp lực VC tại sân bay Tây Lộc và Ðại Nội. Ngày 19/2 TQLC mở chiến dịch Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BĐQ được tăng cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy. Ngày 25/2/1968 Biệt động quân chiếm lại Khu Gia Hội, chấm dứt chiến cuộc tại Huế với đổ nát, điêu tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường xá, biến thành tử địa với xác người nằm la liệt đã sình thối. Tất cả chỉ còn là sự tàn nhẩn, thê lương, từ bàn tay đẳm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ loại mặt nạ gây nên. Tóm lại không còn lời nào để đủ viết về Huế đang quằn quại trong lửa máu, giống như những nhịp cầu Tràng Tiền trên Hương Giang đớn đau gãy xập. Hởi ôi sắt thép, gổ đá còn biết rơi nước mắt với Huế thê lương, trong khi đó lại có không ít người thản nhiên đứng vổ tay cười.

Những hành động dã man nhắm vào dân lành tại Huế , làm nhớ tới Nga Sô tàn sát hơn 5000 hàng binh Ba Lan phần lớn là sĩ quan vào tháng 9-1939 tại rừng Katyn ở phía tây thành phố Smolensk, chứng tỏ bản chất hiếu sát vốn tiềm tàng trong máu óc của cọng sản, dù chúng là ai chăng nửa, tất cả đều giống nhau vì cùng chung một tổ,một lò.Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, Huế là thành phố bị thiệt hại nặng nhất về nhân mạng cũng như vật chất vì bị VC chiếm đóng lâu dài nhất. Riêng người Huế sỡ dĩ bị tàn sát dã man, theo một số nhân chứng , do VC được chỉ điểm bởi một số nằm vùng địa phương vì thù oán nhau mà trả thù, rồi lại được tự do đi lại trong thành phố nên tự do hành động, nhất là trong khoảng từ mồng hai tới mồng bốn, tha hồ đi từng nhà,lôi từng người ra bắn giết theo ý muốn, đúng với kỹ thuật bắt và thủ tiêu theo KGB và Maoit .

Trong số các hung thần can dự tới bửa tiệc máu tại Huế, dư luận trước sau vẫn nhắm vào Lê văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan và Nguyễn đắc Xuân. Năm 1966 khi còn là một sinh viên, Nguyễn đắc Xuân từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” quậy nát Huế, sau đó trốn theo VC và trở lại cố đô vào Tết Mậu Thân, phụ trách đội “Công tác thanh niên” và khuyến dụ các quân nhân VNCH bị kẹt, để lập cái gọi là đoàn nghĩa binh.. Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế không hưởng ứng tổng khởi nghĩa, trái lại bỏ trốn sang các khu vực có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến Tàu,Phú Bài.. Bắt đầu ngày mồng ba Tết, QLVNCH và Hoa Kỳ phản công, ngày 7-2-1968 VC giựt xập cầu Trường Tiền. Ngày 15-2 Quân Ủy cọng sản tại Hà Nội ban lệnh cho VC tử thủ tại Huế, nhưng tình hình càng lúc càng bi đát cho VC nên Lê Minh muốn rút quân. Ngày 23-2 VC bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú văn Lâu.

Nói chung cọng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là tại khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị VC chiếm lâu nhất từ ngày mùng 2 Tềt đến 22-2-1968 mới được Biệt Ðộng Quân giải tỏa, bởi vậy giặc và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều đồng bào vô tội. Cho đến nay không ai biết chính xác số người bị VC tàn sát tại Huế là bao nhiêu nhưng căn cứ vào thống kê số hài cốt tìm được trong một số hầm chôn tập thể sau khi giặc bị đánh duổi khỏi thành phố, tại các địa điểm Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bải Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Ðức, Ðồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Ðông Ba, Trường An Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông,Chùa Từ Quang,Lăng Gia Long, Ðồng Di,Vịnh Thái,Phù Lương , Phú Xuân,Thượng Hòa,Thủy Thanh,Vĩnh Hưng và Khe Ðá Mài.. tổng cộng đếm được 2326 xác.

Về câu hỏi tại sao VC tàn sát thường dân vô tội, đến nay Hà Nội vẫn tránh né, còn Võ nguyên Giáp thì đểu giả hơn khi bị các ký giả ngoại quốc phỏng vấn sau Tết Mậu Thân, đã trả lời là Bắc Việt không hề biết vì đó là chuyện của MTGPMN và VNCH. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thì động cơ cọng sản tàn sát dân chúng tại Huế, ngoài một lý do nhỏ là sự trả thù do hờn oán trước đây giữa cá nhân và cá nhân, thì tàn sát theo kế hoạch phá huỷ và làm rối loạn bộ máy cầm quyền của VNCH, điều này đã được ghi lại trong một tài liệu cuả cán bộ VC , bị SĐ1 Không kỵ Hoa Kỳ bát được tại tỉnh Thừa Thiên ngày 12-6-1968 .Tàn sát để khủng bố và cảnh cáo đe dọa dân chúng đừng tòng quân chống cộng. Tàn sát tín đồ Thiên Chúa Giáo để chia rẽ sự đoàn kết tại miền nam, tạo sự nghi kỵ giữa các tôn giáo cho tới ngày VC cưởng chiếm dược miền Nam mới chấm dứt vì VC độc tài đảng trị, cấm biểu tình xuống đường, nên bốn bên bốn phía bình đẳng chịu sống chung hòa bình. Từ đó mới không thấy tự thiêu, tuyệt thực và ra báo chống đối, bêu xấu, hạ nhục chính quyền như cơm bửa thời VNCH. Tàn sát dân chúng để gây tiếng vang với thế giới.

Ðem các biến cố năm1885 tại Huế và 1946 ở Hà Nội để so sánh với Mậu Thân 1968 tại Huế , bổng thấy lạnh mình về những lời chạy tội của Ðại Tá VC Bùi Tín, khi trả lời về cuộc tàn sát của VC đối với thường dân tại Huế năm 1968. Theo nhận xét của Nguyễn đức Phương trong ‘ Chiến Tranh toàn tập ‘ thi Bùi Tín không biết gì về qui ước Genève dành cho tù binh chiến tranh, hoặc biết nhưng giả bộ ngây thơ không biết để có lý do bào chửa sự tàn ác dã mang của cán binh VC và biết thêm về quan niệm của Hà Nội, luôn qui chụp tất cả những ai chống đối họ, đều bị gán là tù binh với kết quả như Bùi Tín nói là phải được chết để giữ gìn bí mật quốc phòng.

Theo Nguyễn Lý Tưởng, thì những hành động dã man của Việt Cộng, tại Thành Nội và Gia Hội,do cái gọi là Toà Án Nhân Dân được quyết định bởi các chóp bu trong Liên Minh Dân Chủ Hòa Bình, là Lê văn Hảo, Thích Ðôn Hậu, bà Nguyễn Ðình Chi.. nhưng chủ chốt và dã man tàn bạo vẫn là bọn theo phong trào tranh đấu chống VNCH năm 1966, sau đó theo VC và quay về Huế như Hoàng phủ ngọc Tường (giáo sư), Hoàng phủ ngọc Phan (sinh viên y khoa), Nguyễn đắc Xuân (sinh viên sư phạm),Trần quan Long (sinh viên sư phạm), Phan Chính Dinh hay Phan Duy Nhân (sinh viên).. dẫn an ninh VC như Tống hoàng Nhân, Bảy Khiêm.. đi lùng bắt bạn bè, thân nhân, các thành phần quân, công, cán, chính VNCH cũng như các đảng phái bị kẹt lại tại Huế.

Hiện nay tất cả những bí mật của lịch sử gần như được khai quật trong đó có cuộc thảm sát thường dân tại Huế năm Mậu Thân. Những tội nhân thiên cổ ngoài bản án của lương tâm, đạo đức và sự nguyền rủa của đời, nên không ngớt tìm đủ mọi cách để biện minh về tội lỗi của mình. Năm 1988,trên báo Sông Hương và được dịch đăng lại trên tờ Newswwek ở Hoa Kỳ, Ðại Tá Bắc Việt Lê Minh, nguyên chỉ huy mặt trận Thừa Thiên-Huế, xác nhận và chịu trách nhiệm về việc tàn sát dân chúng Huế nhưng vẫn đưa ra lý do là lúc đó VC đang ở vào giờ thứ 25, nên không kiểm soát được .

Còn thủ phạm chính Hoàng phủ ngọc Tường thì đổ thừa cho cục bộ, địa phương chứ không phải tại đảng, vẫn giữ nguyên ý là miền nam mất vì cách mạng chứ không bị cộng sản quốc tế xâm lăng, và trên hết vào ngày 12-7-1997 Tường công khai chối tội là không tham dự mặt trận Huế, vì lúc đó y đang trốn tại địa đạo trong quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Còn nhân vật bị bia miệng nhắc tới là Hoàng phủ Ngọc Phan.. mà người Huế tưởng lầm ? Lê văn Hảo hiện đang sống tại Pháp cũng chối tội. Sau rốt chỉ có Hoàng phủ Ngọc Phan và Nguyễn đắc Xuân vì lúc đó gần như là công an, cai tù, chánh án và đao phủ thủ.. nên người Huế ai cũng nhận được, vì vậy phải chịu tai tiếng nhơ nhớp muôn đời.

Ngày nay ai cũng biết Tết Mậu Thân VC thua lớn và Tổng thống Hoa Kỳ là Johnson phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước lịch sử vì đã cố tình tạo nên một lỗi lầm nghiêm trọng về đạo đức., gây tử vong cho nhiều người có thể tránh khỏi nếu được báo trước sự thật.

Tóm lại dù Hà Nội đã chuẩn bị kế hoạch cưởng chiếm VNCH thật chu đáo, cũng như đã tin tưởng tuyệt đối vào đám Việt gian Miền Nam nhưng cuộc tổng tấn công đã hoàn toàn thất bại về quân sự. Chúng cũng thua VNCH về phương diện đạo đức và chính nghĩa, khi đã tàn nhẩn bất lương xô đẩy hàng trăm ngàn người vào cỏi chết, kể cả bắt các thiếu niên đi lính đở đạn ‘ sanh bắc tử nam’ Hồ, Duẩn lẫn Giáp đã phỉnh gạt cán binh chết lót đường cho chúng khi nói láo rằng ‘ Miền Nam đã được giải phóng, nên miền Bắc chỉ vào tiếp thu mà thôi’.


Viết tại Xóm Cồn Ha Uy Di
Tháng 1/2010
Mường Giang

Monday, January 25, 2010

Bàn về quan điểm lịch sử mới của Seth Jacobs



Nguyễn Văn Hóa

Bàn về quan điểm lịch sử mới của Seth Jacobs khi nhìn lại chiến tranh Việt Nam và chính sách đối ngoại của Mỹ.
(bổ sung ngày 31.10.2006 –nvh)

Seth Jacobs là một sử gia, giáo sư sử học trường Đại học Boston, bang Massachuttes. Ông còn là người Do Thái (họ Jacobs !). Đặc biệt trong vòng 6 năm qua, ông viết 2 cuốn sử đề cập đến chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa của Tống thống Diệm và mối liên hệ triết lý chính trị đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn mở đầu Chiến Tranh Lạnh sau Thế Chiến Thứ II. Nói ngắn gọn về ‘triết lý chính trị đối ngoại’ đó là “yếu tố tôn giáo.” Thật vậy, tôn giáo vừa là công cụ, chiêu bài, vừa là chính sách thực tiễn áp dụng phổ quát lên vai trò lãnh đạo của các quốc gia đồng minh nhỏ bé của Hoa Kỳ, như một sức mạnh tinh thần khả dụng đối đầu với sự truyền bá “vô thần” của hai quốc gia địch thủ là Nga sô và Trung Hoa lục địa. Bài khảo luận lịch sử “khai vị” cho 2 cuốn sử nói trên được đăng tải trên tạp chí Boston College, Volume 25 chuyên đề: Diplomatic History, Số 2, Thu 2001: ‘“Our System Demands the Supreme Being’: America’s Religious Revival and the ‘Diem Experiment.’ 1954-1955” .

Và tiếp theo sau là cuốn:

1. “Người Mang Phép Lạ của Mỹ ở Việt Nam: Ngô Đình Diệm, Tôn Giáo, Chủng Tộc và Sự Can Thiệp của Mỹ ở Đông Nam Á, 1950-1957,” Duke University Press, 2004 (America’ s Miracle Man in Vietnam: Ngo Dinh Diem, Religion, Race and U.S. Intervention in Southeast Asia, 1950-1957, Duke University Press, 2004).

Cuốn thứ hai, vừa xuất bản trong tháng 9, 2006:

2. “Vị Quan Lại Chiến Tranh Lạnh: Ngô Đình Diệm và Nguồn Gốc của Chiến Tranh Mỹ ở Việt Nam, 1950-1963,” Nhà xb. Rowman & Littlefield, 2006. (Cold War Madarin: Ngo Dinh Diem and the Origins of America’s War In Vietnam, 1950-1963, Rowman & Littlefield, 2006).
Một bài báo khác trên tạp chí Boston College, Số Mùa Xuân 2005 (Spring 2005) , gần như thu tóm luận sử của hai cuốn sách nói trên, “Hoa Kỳ đã hổ trợ vị Tổng thống thất bại và ‘đạo đức giả’ Miền Nam Việt Nam như thế nào?” (How America Came to Back South Vietnam’s Depised and Doomed President?). [i]

Không phải ai cũng có thể chấp nhận ‘tiền đề’ luận điểm lịch sử trên đây một cách dễ dàng, và dù cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa Cộng Sản và Tư Bản đã triệt tiêu, lịch sử nhân loại đang bước qua khúc quanh tiến bộ mới, nhưng với sự xung đột quyền lợi của các siêu cường đưa tới chiến tranh vùng hoặc toàn cầu, vai trò “tôn giáo” được sử dụng như công cụ và chiêu bài vẫn không thay đổi. Một số nhà bình luận chính trị quốc tế đã ví von so sánh chính sách Hoa Kỳ đã tạo dựng Saddam Hussein tương tự như họ đã tạo dựng và ủng hộ các chế độ miền Nam trước đây, rồi đến khi thực tế chính trị không còn phù hợp với quyền lợi của mình, Hoa Kỳ đã đạp đổ các chế độ đó không thương tiếc. Nếu chúng ta đồng ý một cách giản đơn lời bình luận này, thì chiến tranh trên bình diện cụ thể là vật chất nhưng lại hóa dạng thành một cuộc xung đột văn hóa và sự tôn thờ Thượng Đế, Chúa nào chính thống, Chúa nào tài năng phép tắc hơn!?, hay Chúa của tao hơn Chúa mày! (Trên các tin tức thời sự chiến tranh ở Trung Đông hiện nay, báo chí thỉnh thoảng tường thuật vài lính Mỹ thường nói, Our God is better than your God đó sao!).

Nhưng từ thực trạng xung đột văn hóa tầm quốc tế nói trên, đồng thời chúng ta cũng nhận ra không còn vấn đề xung đột giữa hữu thần và “vô thần” (qua sự sụp đổ và biến dạng chính trị ở các quốc gia cộng sản) nữa. Vô thần, hay nói cách khác, con người không còn có niềm tin nào ngoài thế giới vật chất và lý trí không còn chỗ đứng trong sinh hoạt xã hội thực tại, dù tâm linh chỉ là một hình thức thụ động. Trong thời kỳ xung đột của Chiến Tranh Lạnh giữa Chủ nghĩa Tư Bản và Cộng Sản, ông Ngô Đình Nhu nhìn thấy rõ căn nguyên của sự mâu thuẫn giả hình đó. Ông nói, “Trong cuộc Cách Mạng Thế Giới này (tức Cộng Sản và Tư Bản –nvh), Âu Châu đã song hành “viện trợ” (ý hệ -nvh) cho các quốc gia chậm tiến. Đó là một thái độ. Một bên là thái độ của chủ nghĩa thực dân, bên kia là cộng sản. Bởi vì Âu Châu là nơi sản sinh lý thuyết chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân lại cho ra đứa con song sinh: một đứa gọi là Chủ nghĩa Thực dân, một đứa gọi là Chủ nghĩa Cộng sản.” [ii]

Từ quan điểm lịch sử đó, ông Ngô Đình Nhu muốn tiến hành đường lối chính trị thực tiễn: “Tất cả anh em chúng ta ở Á Phi phải tìm con đường thoát thứ ba, không phải là lực lượng thứ ba, không giống như Âu Châu và Chủ nghĩa Cộng sản. Làm thế nào đế thoát khỏi nó, bằng phương pháp gì, theo từ nghĩa nào? Đó mới chính là vấn đề, và để giải quyết nó chúng ta không thể bắt chước bất cứ ai, bởi chúng ta muốn phát triển một chính sách mới, dĩ nhiên chúng ta phải có phương pháp mới, và để có phương pháp mới chúng ta phải nổ lực trong lãnh vực văn hóa. Đúng vậy, vấn đề xây dựng quốc gia, xây đắp một nền dân chủ ở Châu Á là một vấn đề văn hóa.” [iii]

Đó là yếu tính chính trị giải thích được tại sao ông Nhu chống lại chính sách can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ. Và, để trả lời một câu hỏi về tương quan giữa Ấn Độ và Việt Nam trong vị thế “trung lập”, Ngô Đình Nhu mở rộng quan điểm chính trị của ông với vai trò của Phật Giáo trong vấn đề phát triển như sau:

“Chúng ta tự đặt một câu hỏi, có gì trong Phật Giáo có thể làm cho chúng ta tiến bộ, mà thường chỉ nghe nói đến Từ Bi (Compassion). Người dân trong các nước Phật Giáo giải thích về lý thuyết Từ Bi. Nhưng nếu chúng ta lấy Nhân Vị để đo lường Từ Bi, thường thường [chúng ta thấy rằng] [iv] Từ Bi là cơ hội để khai thác khuynh hướng của người dân làm việc từ thiện và quên mất vấn đề công lý. Công Lý phải đi trước Từ Bi, Từ Bi phải bắt đầu với công lý. Với nền công lý trong xã hội, chúng ta nhận ra rằng, chúng ta đã lo lắng thái quá với khái niệm Từ Bi trong Phật Giáo, bởi lẽ Từ Bi ấy được thai nghén trong Nhân Vị là gì? Có nghiã là chúng ta phải có công lý trước, và Từ Bi theo sau. Chúng ta không đòi hỏi phải cho người dân vật chất (nào đó –nvh) mỗi tháng một lần, xong họ về nhà thỏa mãn với lòng Từ Bi của chúng ta rồi họ chẳng quan tâm ai chết trong chính căn nhà của chúng ta nữa. Vậy là sai lầm. Từ Bi hiện hữu vì nền tảng của công lý hiện hữu.” [v]

Và lý thuyết Nhân Vị của Ngô Đình Nhu có thể tóm tắt trong khái niệm này –Con người chỉ thật sự có giá trị, nhân cách khi hắn có thể làm chủ tư hữu căn bản trong đời sống, chẳng hạn như nhà ở, ruộng vườn canh tác, công việc làm, mà ông gọi là chủ quyền tư hữu (‘private ownership’). Từ sự làm chủ tư hữu, hắn (con người) tiến tới sự tự do và độc lập với chính quyền, nên chính quyền không thể áp đặt sự độc tài chuyên chế lên hắn!

Thế nhưng, khi nói đến chế độ của ông Ngô Đình Diệm thường các sử gia đánh mất vai trò chủ đạo tư tưởng chính trị của ông Ngô Đình Nhu; cũng bởi lẽ tư tưởng chính trị này chưa có cơ hội thi triển. Trong khi ấy, để đối trị với hai nước lớn Cộng sản lớn trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, chính sách của Hoa Kỳ nửa úp nửa mở dùng “tôn giáo” (Ki-tô giáo) như một khả thể văn hóa đối đầu với chủ trương “vô thần”, vô hình chung lại đối nghịch với chủ trương chính trị của Ngô Đình Nhu. (Cần đặt ra một câu hỏi nơi đây, tại sao trong ý thuyết ông Ngô Đình Nhu không hề có ý chống báng Phật Giáo mà còn có thài độ thỏa hiệp nữa, nhưng tại sao trong thực tế ông lại đàn áp PG? Đây là đề tài sẽ được thảo luận ở bài viết khác!)

Ở đây, người viết xin nêu ra yếu tố “tôn giáo” như là “khả thể văn hóa”. Vậy, “khả thể văn hóa” đó là gì? Seth Jacobs trình bày nó qua quan điểm lịch sử của ông:

Sáng ngày mồng 2 tháng 11, 1963, hai anh em ông Diệm và Nhu bị thảm sát….
“Thế là chấm dứt 9 năm của Hoa Kỳ trong nổ lực tạo dựng cho ông Ngô Đình Diệm trở thành một vị lãnh đạo quần chúng có khả năng chống cộng đối chọi với Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Chính quyền Eisenhower và Kennedy đã đổ vào hàng tỉ đô la cho ông Diệm với sự tin chắc rằng ông, chỉ có mình ông thôi, là đại biểu cho sự sống còn quốc gia miền Nam Việt Nam. Một lô cố vấn chính trị Mỹ đến Sài Gòn để giúp đỡ ông Diệm mọi thứ từ giao tế nhân sự đến thảo hoạch hiến pháp; cố vấn quân sự Mỹ đến huấn luyện quân đội Nam Việt Nam chống lại du kích quân cộng sản và sự đe dọa nền trung lập với uy thế của ông; báo chí luồng chính của Mỹ đã ca tụng ông Diệm là “Một Phép Lạ của Việt Nam” (báo Life) và “một người mà lịch sử ban cho như một hình ảnh vĩ đại của thế kỷ 20” (tờ New York Times). Gần cả thập niên, những nhà làm chính sách Mỹ đã kiên trì với chiến lược mà nhà báo Homer Bigart đã châm biếm là “bơi và chìm theo với Ngô Đình Diệm.” Nhưng sau tấn bi kịch mà ông Diệm thủ vai chính đã tàn, tất cả những gì mà Hoa Kỳ đã chứng minh là sự hổ trợ trong gần thập niên là danh sách phí tổn láo khoét và nền cộng hòa của Miền Nam Việt Nam càng rối loạn tệ hại hơn cả trong trong mấy tháng đầu mà chế độ non yếu được hình thành.

Trong lúc mọi hiện tượng lịch sử là đối tượng của những làn sóng xét lại và chống-xét-lại, thật là khó mà định tính chính sách “bơi và chìm theo” là gì ngoài sự thảm họa. Khi ông Diệm trở thành thủ tướng của Nam Việt Nam năm 1954, chỉ có chừng vài chục cố vấn Mỹ trong quốc gia non yếu. Thế mà vào lúc ông bị giết, nhân sự Mỹ “toàn quốc” đã lên vượt qúa con số 16 ngàn người. Pháp là quyền lực thống trị ở Việt Nam trong gần thế kỷ, từ chối thừa nhận cái gọi là một “cuộc thử nghiệm Diệm” và từ bỏ cựu thuộc địa của họ trong mấy tháng đầu khi ông Diệm nắm chính quyền, do đó, họ đổ lỗi cho Hoa Kỳ có trách nhiệm chính cho sự tô bồi làn sóng đỏ ở Đông Nam Á châu. Chế độ của ông Diệm đánh dấu giao điểm chính sách của Mỹ từ cố vấn và hổ trợ đến đồng minh trong cuộc nội chiến của người Việt. Sự cam kết với ông Diệm là điều kiện tiên quyết đưa tới kết thúc thất bại và nhục nhã của Hoa Kỳ.

Các sử gia về chiến tranh Việt Nam thường quy tội hợp đồng định mệnh này cho đặc tính chống cộng của chiến tranh lạnh Mỹ và sự nặc danh của các chính khách Sài Gòn . Tinh thần chống cộng hung dữ của ông Diệm, theo như các biện luận, đã làm cho ông ta trở thành một chiến sĩ được ủy nhiệm của thế-giới-tự-do cho chiến tranh lạnh của Mỹ ngăn chận ảnh hưởng của Nga sô và Trung Hoa bên kia phía bắc vĩ tuyến 17, đặc biệt kể từ khi Hoa Thịnh Đốn không còn quan tâm đến bất cứ một địch thủ xứng đáng nào với thủ tướng miền Nam Việt Nam. Còn theo các bản tường trình đầy thận trọng vào giữa thập niên 50 ở Sài Gòn đã có các chính khách chống cộng không chê vào đâu đuợc có thể là chọn lựa thay thế ông Diệm, mà một nhóm thảo hoạch chính sách của Tổng thống Dwight Eisenhower đã được thông tin về sự hiện diện của họ, như cựu thủ tướng Phan Huy Quát, có lúc gần như đã thay thế ông Diệm, như J. Lawton Collins, đặc sứ của Eisenhower ở Việt Nam, đã không ngừng khuyến cáo hiệu quả của sự thay thế đó. Một vài ứng viên thích hợp khác là tổng trưởng ngoại giao Trần Văn Đỗ và Tướng Nguyễn Văn Hinh. Các nhân vật này đều chống cộng và họ có nhiều kinh nghiệm chính trị hơn ông Diệm. Thế nhưng không một ai nhận được sự ủng hộ của chính quyền Eisenhower.

Hơn nữa, luận điểm cho rằng từ khởi đầu ông Diệm chứng tỏ là nhà cải cách tự do, và chỉ trở thành một người độc tài chỉ mấy tháng sau cùng thôi –là một lối tường thuật của các chính quyền Kennedy và Johnson đã truyền bá trong thời gian đầu đến giữa thập niên 1960 –là một điều sai lầm rõ rệt. Những sự lượng giá tổng hợp của các quan sát viên Mỹ trong thời gian đầu của chế độ ông Diệm đã tương đồng với phẩm chất đã mang lại sự giết hại ông trong 9 năm sau đó : kỳ thị chống lại các người không-Công-Giáo, từ chối sự chia xẻ quyền hành, sẵn sàng dùng bạo lực để đàn áp những người đối lập. Ông Diệm chẳng bao giờ muốn giả bộ trở thành bất cứ cái gì khác ngoài con người thật của ông là, ông chẳng bao giờ muốn sự đổi thay.
Những lời giải thích truyền thống về sự lao đầu với thử nghiệm ông Diệm cũng không đứng vững đối với những người đối diện với chính sách đó, lẽ ra cần phải hiểu biết khá hơn. Hiệp ước Geneva 1954 thiết lập bởi cuộc thương thảo hòa bình đa phương cho Chiến tranh Đông Dương cho phép Hoa Kỳ có hai năm để tạo dựng một ứng viên có khả năng thách thức với Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tuyển cử toàn quốc. Tại sao Eisenhower và Tổng trưởng Ngoại giao John Foster Dulles lại chọn lựa một người Công Giáo sùng đạo trong một quốc gia có đến 90 phần trăm là Phật tử? Tại sao lại cột buộc tương lai của Mỹ ở Đông Nam Á châu vào một cá nhân có tính khí thất thường và thiếu sự mềm dẽo cần thiết để đương đầu với các vấn đề quan trọng? Và, tại sao sử gia Barbara Tuchman đã dẫn giải về những chính trị gia thông minh đã có thái độ trái ngược với lý trí và sự đỉnh ngộ cần có? Trong một buổi nói chuyện sau bữa ăn tối với các nhân viên của Bộ Ngoại Giao vào ngày 11 tháng 4, 1955, Dulles đã nêu ra lý lẽ trần truồng là, chính giá trị và niềm tin tôn giáo đã lèo lái chính sách của ông.” [vi]

Trong khi đó, tờ Đài Bắc Thời Báo (The Taipei Times) là một cơ quan ngôn luận mang màu sắc Phật Giáo, thân chính phủ Đài Loan hiện nay, rất đồng quan điểm với Seth Jacobs. Chúng ta cần biết, chính phủ Đài Loan hiện nay chống lại chính sách “một nước Trung Hoa” của Trung Cộng, khác biệt với hậu thân Quốc Dân Đảng của họ Tưởng (**) đang có khuynh hướng đi tới sự hợp tác để thống nhất một nước Trung Hoa theo chính sách của lục địa. Đây là dữ kiện mà những người làm chính trị để bảo vệ cho tinh thần Phật Giáo VN trong giai đoạn hiện tại cần tìm hiểu thêm. Dưới đây chúng tôi xin lược dịch bài điểm sách của Bradley Winterton trên mạng The Taipei Times:
“Tôn Giáo đã làm cho Mỹ kết hôn với mâu thuẫn ở Việt Nam” (Religion kept US married to Vietnam conflict.) [vii]

“Trong thập niên 1950 có ba nhà lãnh đạo Á châu nổi bật đều là tín đồ Ki-tô giáo –Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Lý Thừa Vãn của Nam Hàn và Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam. Cuốn sách xuất sắc này đã nói đến câu chuyện Mỹ đã can dự sâu xa để hổ trợ cho ba nhà lãnh đạo đó như thế nào.
Nhưng trước khi nói những gì về tác giả, điều quan trọng là cần phải giải thích lý thuyết của Seth Jacobs.

Jacobs tin rằng tôn giáo đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam hơn là người ta thường nghĩ cho đến ngày nay. Á Châu đã được các nhà hoạch định chính sách ở Captitol Hill nhận thức là khu vực đã bị kiểm soát bởi những kẻ Vô thần, Cộng sản từ mệnh lệnh của thủ-phủ vô-thần Mốt-cao (Moscow).

Cộng thêm vào, bản thân người Á châu qua biểu kiến là những người thụ động, dễ dàng uốn nắn, và đa số gắn chặt với một tôn giáo –Phật Giáo, vốn khuyến khích tinh thần tiêu cực như vậy. Chính vì vậy, đối với họ, chỉ có những nhà lãnh đạo Phật Giáo thì không đủ.

Tín đồ Ki-tô, với sự kiên quyết đối đầu với vô thần dưới mọi dạng thức, do đó chỉ có những cá nhân này mới có đủ khả năng để dẫn dắt những người dân hiền lành này chống cự lại với ma quỷ từ phương bắc.
Để hổ trợ cho phân tích này, tức là chống lại quan điểm Mác-xít cho rằng mọi động lực xã hội đều xuất phát từ kinh tế, Jacobs tìm hiểu sự trao đổi ngoại giao giữa các nhà chính khách Mỹ của thập niên 1950 và các đại biểu của họ ở Đông Nam Á châu. Ông còn dựa trên các sách vở căn yếu đã tạo hình nên quan điểm công chúng Mỹ về khu vực trong thời kỳ đó. Tất cả các nguồn này đều nhấn mạnh đến khía cạnh tôn giáo trong sự tranh chấp.

Đó là quan điểm đơn thuần nghiên cứu mang tính kinh viện nhưng nó lại không hòan toàn khác biệt với hoàn cảnh ngày nay. Trong năm 2005, một lần nữa chúng ta lại thấy sự hiện diện nặng nề của Mỹ ở vùng đất xa xôi với lý do can thiệp đặt nặng trên vấn đề tôn giáo. Bush, Cheney và cả Rumsfeld đều đề cập đến quan điểm trong kinh thánh về trận chiến hoàn vũ mà họ đang can dự.

Trục Ma-qủy (Axis of Evil) chính là thừa kế của Đế quốc Ma (Evil’s Empire) quỷ dưới thời Reagan đã một dạo từng đưa tôn giáo ra chiến trường, thêm vào đó là một chuỗi sách vở được tạo nếp suy nghĩ cho chính quyền Hoa Kỳ.
Sự đồng dạng không chỉ ngừng ngang đó, Trong cuộc chiến Việt Nam, đồng minh trong sự “tự nguyện”, được thiết đặt lại lần nữa --Úc, Tân Tây Lan và chừng một tá quốc gia khác đang trở thành sự che đậy quốc tế cho sự can thiệp của Mỹ.

Một cuộc thập tự chiến chống-vô-thần đã được tuyên xưng –một từ ngữ đã từng được dùng trong những ngày qua –và toàn thể dự án được biểu hiện dưới lá cờ “nô lệ đối nghịch với tự do”. Song hành với ngày hôm nay, nói cách khác là, sự phù hợp đáng kinh sợ.

Ban đầu cuốn sách tập hợp được quan niệm chung của người Mỹ để hỗ trợ cho hành động ở Đông Nam Á với, Xin cứu chúng tôi ra khỏi sự dữ (hay “ma quỷ”) (Deliver Us from Evil) của Tom Dooley, được Jacobs coi như là một “đòn tuyên truyền thật thông minh cho Chiến Tranh Lạnh, trong đó kẻ thù cộng sản được coi như là ma quỷ, Mỹ và đồng minh Nam Việt Nam là hiện thân của đức lý.”

Dooley là một y sĩ, kẻ đã chứng kiến “Con đường đi tìm Tự do” của làn sóng người tị nạn từ miền Bắc Việt Nam bị kềm kẹp dưới chế độ Cộng sản di cư vào Nam trong các năm 1954 và 1955. Kể lại những câu chuyện hung bạo là nét đặc biệt của ông, đáng kể nhất là các tu sĩ Công Giáo với những chiếc đinh đóng vào sọ đầu bắt chước như vòng gai của Chúa Giê-su. Những vết thương mưng mủ của các người Việt tị nạn, mặc dù đã được diễn tả sinh động, càng làm ra vẻ cho ghê gớm thêm lên.

"Xin cứu chúng tôi ra khỏi sự dữ" được Jacobs mô tả là mang “tính kỳ thị, thiếu sự tinh tế, nhận thức khô khan so với tính phức hợp của lịch sử và chính trị Việt Nam.” Thế mà, những kẻ quyền lực ở Hoa Thịnh Đốn đều đọc nó, và xem chừng một số lượng rộng rãi công chúng Mỹ cũng đọc nó luôn.
Sự thật thì Dooley là một anh chàng đồng tính luyến ái, bị sa thải ra khỏi quân đội vì lý do kỹ luật, dù vậy ông không bị mối nhục với công chúng vì được che đậy, chỉ đề cập qua loa, rồi bưng bít luôn. Dooley đã trở thành một kẻ quá hữu dụng cho công cụ tuyên truyền để những sự thật nói trên được phép công khai hóa.

Cuốn tiểu thuyết "Người Mỹ trầm lặng" (The Quiet American) của Graham Greene là sự kiện hoàn toàn trái ngược. Được đánh giá cao ở Âu Châu, nó lại bị báo chí Mỹ chỉ trích. Còn gì hơn nữa, khi cuốn sách được làm phim và chiếm giải Oscar với đạo diễn Joseph Mankiewiccz, toàn bộ cuốn sách đã bị đảo ngược, và người Mỹ bị chế nhạo là Pyle, trở thành một kẻ anh hùng còn trắng-hơn-người-da-trắng nữa.

Thái độ tương phản giữa người Âu và người Mỹ còn biểu thị song song với các biến cố mới đây nữa.

Một đề tài khác trong kỷ nguyên này ở Mỹ là người ta sợ Mỹ quá mềm mỏng để đối đầu với làn sóng Đỏ. Cuốn sách đáng thuyết phục nhất cho tinh thần đó là, Người Mỹ xấu xí (The Ugly American) của Lederer và Burdick, cũng đã được tác giả phân tích rộng trong cuốn sách này.

Chính trị Việt Nam, luôn luôn là sự phức tạp như các kẻ đã can dự vào hai phía bắc và nam, chẳng hạn có đến bốn tôn giáo khác biệt, cũng như thái độ khác biệt giữa người Pháp và Mỹ (là hai kẻ ở ngoài đến hành hạ khu vực này), đồng thời được diễn tả ở đây một cách sáng sủa khác thường. Đó là lối văn mang tính sâu sắc đặc biệt và đầy thuyết phục của Jacobs, trong khi ở vài chỗ thì vượt quá những điều rối rắm của hoàn cảnh cụ thể.

Và, Việt Nam là nơi chốn đầy tính phức hợp. Trong Thế Chiến II, chẳng hạn, Mỹ từng hỗ trợ cho Hồ Chí Minh, cũng giống như sau này họ hỗ trợ Saddam Hussein ở Iraq. Lần này chỉ vì Hồ đang chống lại Nhật, kẻ đuợc phép đóng quân ở Việt Nam vì chính phủ thân-Quốc-Xã của Vichy Pháp.

Lần nữa, Ngô Đình Diệm phải chiến đấu chống lại nhiều đối thủ, kể cả Cộng sản, hầu mong nhận được sự hỗ trợ của Mỹ.
Rồi ông ta bị ám sát vào tháng 11, 1963 trong vùng Chợ Lớn của Trung Hoa ở Sài Gòn dưới nanh vuốt của nhóm tướng lãnh âm mưu. Sự cai trị của ông ta được coi là tàn bạo, thay vì biệt danh là anh hùng được ban phát từ Hoa Thịnh Đốn –là “người mang phép lạ của Á châu”, hay “Churchill của Châu Á” và vân vân.

Cũng như Tưởng Giới Thạch, cuốn sách này mang lại nhiều điểm thú vị để biết vì sao ông ta trở nên thân thiết trong trái tim của những người Mỹ, và thí dụ tại sao, ông ta đã xuất hiện đến 10 lần ngoài trang bìa của báo Time, nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào khác.
Đây là cuốn sách hay. Tác giả nói rằng, nghiên cứu về lý do Mỹ đã can dự như thế nào ở Việt Nam trở thành một thứ “kỹ nghệ học thuật rẻ tiền” (a virtual academic cottage industry (?), nhưng dù vậy, ông vẫn tiến hành vì ông tin tưởng từ một góc nhìn mới sẽ tạo ra nhiều-thảo-luận và nhiều-tranh-luận hơn.

Chẳng hạn như các gương mặt của Tổng thống Eisenhower và John Foster Dulles được mang ra bằng những phân tích mới, phần lớn cuốn sách đề cập quan điểm tôn giáo đuợc họ dùng như quan điểm của chính sách ngoại giao.
Kết luận không thể tránh được mà quý vị có sau khi đọc thì đây là cuốn sách rất thú vị để thấy rằng trong khi thế giới đã có rất nhiều điều thay đổi, thì một vài điều chẳng hề đổi thay chút nào cả.”

Lời kết của tôi:

Do Thái là một chủng tộc độc đáo nhất thế giới. Qua chiều dài lịch sử, họ đã chịu nhiều sự đau khổ, chà đạp của chủng tộc khác. Thế mà họ cứ vươn lên không chịu cúi đầu cam chịu số phận. Ngày nay, cái gì đứng vào hàng đầu thế giới cũng có thể là người Do Thái: giàu có, đại tư bản, những khoa học gia sáng chế bom nguyên tử nhưng cũng có những nhà từ thiện lừng danh. Có những Do Thái chống cộng nhưng cũng có những tay tổ cộng sản thế giới xuất thân là Do Thái. Trong chiến tranh Việt Nam hẳn nhiên là có rất nhiều nhân vật Do Thái ủng hộ chế độ Hà Nội, và có nhiều nhà bình luận chính trị đã từng chứng minh chính Do Thái đã bán đứng miền Nam Việt Nam. Cho nên, chúng ta không cần thắc mắc tại sao có một giáo sư sử học danh tiếng như Seth Jacobs, dù không công khai bênh vực chế độ Hà Nội, nhưng hệ luận lịch sử mà ông đưa ra dù được chứng thực bằng chiều dài thời gian, xem chừng ông “không có cảm tình” với các chế độ ở miền Nam Việt Nam. Không phải vì Seth Jacobs đứng trên quan điểm “vô thần” hay tự-do-không-tôn-giáo, nhưng từ lý do tiềm tàng sâu xa khác… Tối hôm qua, trước khi ngồi vào bàn để kiểm soát lại những sai sót của bài viết này, tôi được xem chương trình “hài hước” do Bill Maher điều khiển mà tôi rất ngưỡng mộ. Sau khi mở đầu những lời “cò mồi” cho ba vị khách (một bà hai ông) được mời tham dự chương trình –lần này chĩa mũi dùi vào chính sách chiến tranh của Tổng thống Bush ở Iraq, có một nhân vật (xin lỗi tôi đã quên tên) nộ khí xung thiên mở đầu tấn công Đảng Cộng Hòa bằng những câu nói thẳng thừng như sau: “Bọn Cộng Hòa là một lũ lưu manh. Cứ xem anh chàng Thượng Nghị Sĩ John McCain thì biết. Y là một kẻ từng bị nếm mùi tra tấn trong 5 năm ở nhà tù (Hỏa Lò của Bác Hồ! –nvh), thế mà giờ đây y lại bỏ phiếu thuận cho tên Karl Rove (lại cũng là Do Thái –neocon !) cố vấn cho Rumsfeld cho phép Mỹ tự do tra tấn tù nhân ở Iraq và Guantanamo, Cuba. Republicans? Dick, Rumsfeld, Bush? -They’re shit cowards!”. Vậy, chúng ta chẳng ngạc nhiên khi có “mấy cái đầu” Do Thái khuyến khích Tổng thống Bush đi Hà Nội dự Hội Nghị APEC trong tháng 11 tới đây; chẳng phải vì Do Thái thương yêu chế độ Bắc Việt, nhưng Do Thái đang mất ăn mất ngủ chỉ vì anh Ba-Lý-tài đang thu về một số tiền khổng lồ bán vũ khí cho các khối Ả Rập, Palestine, trong đó có thể có những thứ mà một anh trong ‘Axis-of-Evil’ là Bắc Hàn thủ đắc. Dĩ nhiên, lịch sử có rất nhiều điều vẫn không hề thay đổi!. (viết thêm 31.10.06)

Nguyễn Văn Hóa
Chiều thứ Bảy 28.10.2006

Chú thích:

[i] -How America Came to Back South Vietnam’s Depised and Doomed President by Sethh Jacobs –nguồn:
http://bcm.bc.edu/issues/spring_2005/features.html

[ii] (“In this world Revolution, Europe advocates mutual aid to underdeveloped countries, It is an attitude. The other European attitude of colonialism is the communist attitude. Because Europe ie the place which gives birth to the theory of individualism. Individualism gives birth to 2 twins: one is called Colonialism and the other Communism.”)
Why We Must Defend The Existing Regime, Ngô Đình Nhu thuyết trình tại Phòng Tiếp tân Bộ Thông Tin và Thanh Niên ngày 15/11/1957 | Tài liệu của Cơ quan RAND, bản dịch sang tiếng Anh từ băng thu giọng nói của ông Nhu.

[iii] (“All our brothers in Asia and Africa are looking for a third way out, but not a third force, unlike Europe and Communism. How this way out can be paved, by what method, according to what norms? That is the problem can be raised, and in solving it we cannot imitate anybody, because if we want to develop a new policy, we must naturally have new methods, and to have new methods we must make effort in the cultural field. Thus, the problem of antional construction, of building democracy in Asia become a cultural problem.”) --dẫn như trên--

[iv] Những cụm chữ đặt trong ngoặc [ ] là chú thích riêng của người dịch (do một nhóm dịch, không thấy đề tên người dịch)

[v] (“People in all other Buddhist countries explian the theory of Compassion. But if we use Nhân Vị to measure Tu Bi, very often /we find that/ Từ Bi is an opportunity for exploiting the mind /inclination/ of the people who make charity and forget to do justice. Justice must go ahead of Từ Bi, Từ Bi must begin with justice first. With justice in society, we realize that we worry over taking from Buddhism the conception of Từ Bi, bút that Từ Bi if conceived according to our Nhân Vị is what? It meant that we must have justice first, and Từ Bi next; it does not require that we give people things, once a month and then com home satisfied with our Từ Bi, with no regard to who is dead in our own house, That is a mistake. Từ Bi exists because the foudation of justice exists.” --dẫn như trên (3)--

[vi] How America Came to Back South Vietnam’s Depised and Doomed President by Sethh Jacobs –nguồn:
http://bcm.bc.edu/issues/spring_2005/features.html
(dẫn từ paragraph 2, page 2 đến… end of paragraph 3, page 3)

[vii] Religion kept US married to Vietnam conflict, by Bradley Winterton, báo The Taipei Times số Sunday, Mar 06, 2005, trang 18. Nguồn từ mạng taipeitimes.com:
http://www.taipeitimes.com/News/feat/archives/2005/03/06/2003225763

(**) Theo nhà biên khảo sử Trần Đông Phong, Tưởng Giới Thạch không phải là người của Quốc Dân Đảng. Ông ta ở trong tổ chức “đen” có tên Nam Y –một tổ chức Mafia kiểu Tàu!

© copyright giaodiem.us | 2006

Bàn Về Mấy “Sơ Xảo Tính” Trong Cuốn “Tự Do Và Đạo Lý”

Vài lời xin thưa với tác giả, quý độc giả và các bậc trí giả:

Bài này được viết cách nay đã 15 năm rồi (1994), nhân sau một buổi chiều đi nghe ra mắt sách ‘Tự Do và Đạo Lý’ của tác giả Nguyễn Hữu Liêm ở San Jose. Vào thời gian ấy, tôi đang sống ở căn nhà lụp xụp, lạnh lẽo trên một ngọn đồi ‘gió hú’ –gió lồng lộng quanh năm, bên kia là vịnh Rodeo, bên này là vùng San Pablo (phía đông bắc thành phố San Francisco). Vì tò mò, tôi phải lái xe hơn một tiếng về San Jose để được tham dự buổi ra mắt sách hôm ấy.
Bài viết sau đó được đồng đăng trên các tuần báo Chánh Đạo của ông Ngô Văn Bằng, và nhật báo Thời Báo của ông Vũ Bình Nghi (cả hai đều phát hành ở San Jose). Rất tiếc sau đó, tôi không nhận được ‘phản hồi’ từ tác giả để có dịp học hỏi thêm.
Vào giữa năm 2005, luật sư Nguyễn Tâm ở San Jose, nhằm trong dịp ‘chỉ trích’ tác giả Nguyễn hữu Liêm về những hoạt động “phục vụ cho chế độ Hà Nội”, Nguyễn Tâm gửi email đề nghị xin tôi được đăng lại bài viết này trên Nhật báo (và website) Saigon-USA của ông; tuy nhiên, tôi đã xin lỗi và tế nhị ‘từ chối’ vì nghĩ rằng bài viết đã quá lâu.
Thời gian qua mau, thế rồi vào giữa trung tuần tháng 4/2009 vừa qua, lúc ấy tôi đang còn ở khu mobilehome Balihi ở Santa Ana –đang ngủ trưa bỗng giật mình vì chuông điện thoại reo. Đầu giây nói bên kia là ông Thân Trọng Mẫn mời tôi ra quán cà phê (tôi quên tên) gần bên nhà hàng Royal của Santa Ana, nói là có hai vợ chồng ông Nguyễn Hữu Liêm và nhà sư Đỗ Thuận Khiêm mời uống cà phê và đang ngồi chờ. Thật lòng, tôi không muốn đi, lại nhớ tới cuộc hẹn sẽ đi nghe ông Mai Thanh Truyết thuyết trình đề tài gì đó về ‘họa Trung quốc’ ở chùa Điều Ngự. Nhưng, sau một thoáng ‘chợt nghĩ xa’, tôi quyết định và vội vã thay quần áo đi ra chỗ hẹn. Tôi vội vã đến độ (xin lỗi quý vị) vì đúng vào lúc ấy mắc đi cầu mà phải chùi đít qua quýt rồi chạy ra xe vì sợ trể nãi cả hai chuyện trong buổi chiều. Gặp lại một số người quen cũ như hai vợ chồng ông Liêm, ông Mẫn, ông Hùng…và một số người quen mới (nghe giới thiệu là có vài anh chị đang làm tạp chí về Thơ, và mạng lưới ‘da mầu’). Không khí tẻ nhạt, vài câu chuyện nhạt nhẽo, thi thoảng có vài câu nói 'ba trợn' của sư Thuận Khiêm chen vào –nhưng vì lịch sự, tôi cố ngồi nán lại. Trước khi tôi chuẩn bị lên tiếng sắp từ giã, Nguyễn Hữu Liêm quay qua tôi, đề nghị “Ông H. nổi lên làm loạn đi ông!” Tôi chưa kịp nghĩ ra hết ý nghĩa của chữ “làm loạn” theo miệng ông Liêm, nhưng vẫn nhanh miệng trả lời, “Có chứ, nhưng tôi cần về nhà ngủ thêm một giấc cho tỉnh táo, rồi mới có thể làm loạn được.” Mọi người ngồi quanh bật cười. Nói vừa dứt câu, tôi đứng lên từ giã mọi người, ra về. Dù vậy, tôi tiếc vì ngồi càphê quá thời gian dự định đã trể giờ đi nghe buổi thuyết trình của Mai Thanh Truyết mất rồi.
Bây giờ tôi đang trở về chốn cũ ở San Jose, lục tìm lại được bài viết cũ, mừng quá ngồi đánh máy lại bài viết (bản thảo cũ ngày trước, tôi đánh trên bàn máy chữ không có dấu) để nhanh chóng post lên mạng Hội Tụ như một lời đáp từ “làm loạn” của ông Liêm cho thêm phần vui nhộn trong những ngày vào thu.
Trong bản đánh computer lần này - dù đã cách 15 năm, nên ngoài một vài sửa chữa nhỏ về chính tả - thêm vài chữ mới, nội dung bảo đảm tôn trọng giữ đúng như bản cũ đã gởi cho các báo Chánh Đạo và Thời Báo năm 1994.


nguyễn văn hóa
Tuesday, September 29, 2009
_________________________________________________________________________
Bàn Về Mấy “Sơ Xảo Tính” Trong Cuốn “Tự Do Và Đạo Lý” của tác giả Nguyễn Hữu Liêm (Nhà xuất bản Biển Mới, ấn bản 1993) Nhân Một Buổi Ra Mắt Sách
Nguyễn Văn Hóa

1. Sơ-Xảo-Tính qua không gian buổi ra mắt sách:

2 giờ chiều chủ nhật 21/8/1994, Ban tổ chức của Trường Phật Học Lý Trần đã tổ chức phối hợp ra mắt sách triết học của Phạm Công Thiện (giáo sư, tác giả nhiều sách Triết) và của tác giả Nguyễn Hữu Liêm (luật sư).

Về quá trình sáng tác triết học của Phạm Công Thiện thì không ai xa lạ gì, cho nên đã thúc đẩy trên ba mươi tham dự tại quán cà-phê Sao Đêm thành phố San Jose, trong đó có tôi. Người tổ chức (tiến sĩ Lý Khôi Việt *) trong phần mở đầu giới thiệu tác phẩm “Triết Học Phật Giáo” của Phạm Công Thiện, đã dùng danh từ quá ‘đao to búa lớn’ như…Phạm Công Thiện là một đại triết gia rất có thẩm quyền về triết Tây và triết Đông. Trong lời phát biểu sau đó, ông Phạm Công Thiện đã phủ nhận lối tâng bốc không cần thiết nầy. Lẽ ra, với sự thúc giục của người tổ chức, ông Phạm Công Thiện phải ‘thao thao bất tuyệt’ về Triết học phương Đông; nhưng ngược lại, ông chỉ đề cập vắn tắt về một câu thần chú của Mật Tông Tây Tạng: Um Mani Bát Mê Hồng!. Tiếp theo sau đó, ông trình bày 21 bước tu chứng theo phương pháp của Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng. Ông Phạm Công Thiện đã diễn giải các vấn đề nầy thro lối thông thường, dễ hiểu. Có lẽ đó là chủ ý của ông, vì không gian của buổi ra mắt sách không phải là nơi để giảng dạy hay tranh luận triết học.

Sau phần trình bày của Phạm Công Thiện, ông Vũ thế Ngọc (học giả?) phụ chú thêm về kinh nghiệm bản thân câu thần chú Mật Tông trên. Ông kể trong một buổi đi du sát ngoài biển Santa Barbara, ông và một số sinh viên khác sau một hồi đọc câu thần chú trên đã chứng kiến một đàn cá voi tìm đến và bơi chung quanh chiếc thuyền của họ. Ông Ngọc lý giải: Khi mọi người xướng lên câu thần chú “Um….” Đã tạo ra một làn sóng siêu âm (ultrasound waves) đã triệu tập được đàn cá voi tìm đến. Ở đây ông Vũ thế Ngọc đã dẫm chân vào lãnh vực kỹ thuật điện tử mà có lẽ ông mơ hồ.

Giọng nói, xướng âm, hát của một người dù có cường độ âm thanh (decibel level) nào đó - ở một mức quá nhỏ, không thể nào tạo ra một làn sóng siêu âm được. Muốn tạo được một làn sóng ‘siêu âm’, phải cần có một dụng cụ điện tử đặc biệt phát ra một cường độ mạnh tới hàng triệu decibel. Kỹ thuật để tạo ra ‘Ultrasound’ là kỹ thuật ‘hợp lực, cô kết’ cường độ âm thanh hội tụ thành một ‘tụ điểm’ âm thanh mạnh nhất. Nó tương tự như kỹ thuật ‘Ultra-violet lights’ trong tia sáng laser. Âm độ của giọng xướng câu chú không thể nào tạo ra Ultrasound được (dù cho trên tàu tập hợp cả hàng trăm người.) Người ta có thể tin nghiệm chứng của ông Ngọc là có thật –nhưng ở đây, có thể ông đã lầm giữa cá Voi và cá Heo. Ở đầu con cá Heo vốn có một bộ phận tiếp âm (antenna) có thể bắt được những âm thanh với cường độ decibel nhỏ như tiếng huýt gió, chẳng hạn. Nhưng, muốn đàn cá Heo thuần thục với âm thanh này để tìm đến điểm xuất phát, phải có sự luyện tập lâu dài.

Đó chỉ là chuyện nhỏ, vấn đề đặt ra ở đây là ông Vũ thế Ngọc đã làm lệch lạc ý nghĩa của câu thần chú, và với nội dung ông Phạm công Thiện trình bày. Xướng câu chú “Um….” chỉ là một phương pháp tu Thiền, câu chú chỉ là phương tiện giúp người “tu thiền” bước ra khỏi thực tại trong một không-thời-gian nào đó –trở về với trạng thái ‘Không’. Nói gọn là “thoát ra” (nội-ngoại-tại), giữ tâm tĩnh lặng. Đề cập về tính-khoa-học của câu thần chú ấy ở đây đã trở nên lạc điệu…

Người tới tham dự bắt đầu cảm nhận ‘hơi hướm’ của sự lố bịch… Và, sự lố bịch đã kéo dài ra, mở rộng thêm sau khi ‘người tổ chức’ đã tự ý so sánh: Nếu ‘Phạm công Thiện là đại triết-gia Đông phương’ thì ông ‘Nguyễn hữu Liêm là đại triết-gia Tây phương có thẩm quyền’ (qua tác phẩm “Tự Do và Đạo Lý”.) ‘Người tổ chức’ có vẻ như muốn tạo ra sự kích động nhằm lôi kéo sự tranh luận giữa ‘hai đại triết-gia’ này. Song, ông Phạm công Thiện vốn là kẻ lão luyện, từng trãi trong giới giang hồ văn nghệ đã chủ động được hoàn cảnh để tự tuyên bố chấm dứt buổi ra mắt sách đúng lúc, sau khi đưa ra vài ý kiến trịch thượng của một ‘bậc Thầy’ sau phần phát biểu và nêu vấn đề “Triết lý đi về đâu” (?) của ông Nguyễn hữu Liêm.

‘Người tổ chức’, sau rốt đã tạo thêm một sự lố bịch khủng khiếp (khác) khi cho rằng cuốn sách “Tự Do và Đạo Lý” chỉ dành cho trình độ của các tiến sĩ triết học, tiến sĩ luật học…đọc. Tôi xin miễn phê phán về lói phát biểu này, để dành cho quý thính giả tham dự. Đến đây, các người tham dự đã nhận thức được rằng –sự có mặt của ông Phạm công Thiện cũng như cuốn sách góp mặt của ông chỉ là ‘công cụ, bàn đạp’ nhằm đề cao tuyệt đối luật sư Nguyễn hữu Liêm và cuốn sách (Tự Do và Đạo Lý) của ông mà thôi.

Nêu ra các yếu tố lố bịch trên để xác định động cơ tôi viết bài này.
Về cuốn sách của ông Phạm công Thiện, tôi xin khất lại vào dịp khác. Ở đây, tôi chỉ bàn về cuốn sách “Tự Do và Đạo Lý” mà tôi gọi là ‘những sơ-xảo-tính’, thể hiện qua cách ra mắt sách là “sơ-xảo-tính” thứ nhất.

2. Sơ-xảo-tính trong lối khai mở khái niệm triết học của “Tự Do và Đạo Lý”:

Ai cũng biết, Đức ngữ là ngôn ngữ của ‘triết’, vì Đức quốc là quốc gia sản sinh nhiều nhà triết học lừng danh nhất. Ngôn ngữ -tự nó không phải là ngôn-ngữ-mang-tính-triết-học hay không. Triết gia mới là chủ thể sáng tạo, khai mở, phong phú hóa khái niệm triết học qua phương tiện ngôn ngữ. Phương tiện như chiếc đò qua sông. Phương tiện không phải là xác tín để đạt tới chân lý (Chân lý ở đây được hiểu như là ‘Ý nghĩa của triết học’).
Lão Tử nói : “Đa ngôn số cùng, bất như thử trung”
Theo ý này, Lão Tử coi ‘lời nói’ chỉ là một phương tiện trong muôn ngàn phương tiện. Cho nên nói ít thôi, hoặc nhiều khi không nói (là một cách nói khác) mà vẫn đạt tới chân lý.

Trong Cổ Học tinh hoa, có nói: “Máy móc tức là cơ giới. Kẻ có máy móc tức có cơ giới. Kẻ có cơ giới tức có cơ trị. Kẻ có cơ trị tức có cơ Tâm. Ta đây không phải không biết máy ấy, chỉ vì xấu hổ không dùng mà thôi.” Cho nên, trong tinh thần Đông phương –từ chối một phương tiện, có khi là sự lựa chọn của bậc minh triết.

Có lẽ do một nô-lệ-tính thường tình, tác giả Nguyễn hữu Liêm đã coi Đức ngữ như một phương tiện thời thượng, xác tín cho trình độ nghiên cứu triết học của mình, nên tác giả đã dùng Đức ngữ để trình bày tư tưởng của Hegel, trong khi tác giả lại sở trường và xuất thân từ môi trường giáo dục Anh ngữ.

Trích dịch về lời mở đầu của Hegel trong Rechtsphilosophie (“Philosophy of Right”), tác giả viết: “Cái gì đứng ở giữa trí năng như là một năng lực ý thức của Đạo lý đối với trí năng như là hiện hữu thực tại, cái gì phân biệt giữa hai phạm trù trên là choàng giây xích của thể tính trừu tượng hay cái gì khác vốn chưa được thoát ly ra khỏi chính nó để trở thành khái niệm..” Nguyên văn mà tác giả đã ‘trích dịch’ : Was zwichen der Vernunft als selbstbewufften Geist und der vernunft von dieser scheidet und in ihr nich die Befriedigung finden lafft, ist die Fessel irgend eines Abstraktums, das nicht zum Birgriffe befreit ist..” Tôi không đọc được tiếng Đức nhưng vẫn phải lập lại ở đây để người đọc nắm đươc ý nguyên nghĩa. Thực ra, Rechtspjilosophie đã được nhiều nhà nghiên cứu triết học Mỹ dịch ra Anh ngữ. Tôi xin đơn cử đoạn văn trên đã được T.M. Konox trong “The Philosophy of Right” (nhà xuất bản Oxford University Press – được The Great Western Books in lại năm 1953) dịch như sau: “What lies between reason as self-sonscious mind and reason as an actual world before our eyes, what separates the former from the latter and prevents it from finding satisfactrion in the latter, is the fetter of some abstraction or other which has not been liberated [and so transformed] into the concept..” Hiểu một cách dễ hiểu là, “Cái gì nằm giữa trí-năng-như-là-tự-thức và trí-năng-như-là thế-giới-thực-tại trước mắt chúng ta, cái gì phân chia giữa hai trí năng trên, hay ngăn trở nó từ sự tìm kiếm biện giãi trí năng-như-là-thế-giới-thực-tại, chính là sợi xích trói buộc của thế giới trừu tượng hay cái gì khác đi nữa. Điều đó vẫn chưa thoát [hay chuyển hóa] được để trở thành khái niệm..” Trí năng như là thế-giới-thực-tại –theo Hegel, là một Hiện Hữu Tuyệt Đối (Nhà nước hay pháp quyền, chẳng hạn là một hiện-hữu-tuyệt-đối.) Cái gì của thực tại hiện hữu đều có lý. Đã có lý tất phải có khái niệm. Đây không phải là ‘tiền đề của vấn nạn tư tưởng quan trọng’ trong logic Hegel (theo tác giả Nguyễn hữu Liêm.) Suy tưởng này chỉ là diễn giải cho tiền đề “Cái gì hữu lý là thực tại, cái gì thự tại thì hữu lý’ (What is rational is actual, what is actual is rational). Lý luận này nhằm biện giải cho sự khai mở các khái niệm triết học về Pháp lý, và theo Hegel, để hiểu “cái gì” (what is), chính là nhiệm vụ của triết học (tôi nhấn mạnh!). Nhưng, rất khiêm tốn –trong phần mở đề của “Phylosophy of Right”, Hegel nói rằng: “Cuốn sách này chỉ là bao gồm khoa học về nhà nước, chẳng có gì khác hơn là sự cố sức để nhận thức và mô tả rằng nhà nước là cái thuộc về lý trí cố hữu..” (*)

Tác giả Nguyễn hữu Liêm đã diễn giải “trí năng như là một năng lực của ý thức Đạo lý” (‘reason as self-conscious mind’) là đi quá xa và áp đặt một phạm trù ‘khác’ vào suy tưởng của Hegel, có lẽ vì tác giả hiểu “conscious” là ‘Đạo Lý’. Mặt khác, hiểu “What separates the former from the latter” như “hai phạm trù” là hiểu lệch khái niệm của Hegel. Bởi, đã là phạm trù (khái niệm triết học: “Category’) là đã có sự phân chia!.

Mặc dầu chỉ là phần mở đầu của Chương Một, nhưng chúng ta có thể tìm gặp tác giả đã cố gắng một cách méo mó để phối hợp ‘ý niệm Tự Do’ (Hegel) và ‘Đạo Lý’ (Lão Tử), là bản chất của cuốn sách từ đầu tới cuối.

Trong phần ‘Phụ chú’ (trang 668), tác giả Nguyễn hữu Liêm cho rằng “một số nhỏ trí thức Việt Nam ở Pháp và Hoa Kỳ chỉ trích Hegel dựa theo luận điệu của Schopenhauer hay Popper vốn chỉ được trích dẫn từ các nguồn tài liệu phổ thông (‘secondary sources’). Ý tác giả nói họ không đọc nỗi từ nguyên bản (hoặc chỉ biết phê bình qua sự phê bình của người khác). Chỗ khác, tác giả cho rằng nói đến triết học Hegel bằng “tam thể luận” (‘triad’) là chưa hề đọc Hegel, chỉ khoe cái dốt của mình (NH. Liêm mượcn lời của Allan W. Wood, trang 668).

Dĩ nhiên, khi nghiên cứu về Hegel, người ta không chỉ đọc “Philosophy of Right”, “Philosophy of History”. Tác phẩm quan trọng đầu tiên của Hegel là “Hiện Tượng Luận Về Tinh Thần” (The Phenomenology of Spririt, 1807) –ông đã trình bày một cách chặt chẻ về lý luận biện chứng –‘Mâu thuẫn là động cơ của tư tưởng’ (La Contradiction est le moteur de la Penseé). Tư tưởng không là một dạng tĩnh, mà được tạo dựng bởi mâu thuẫn theo trật tự ‘tiền đề, phản đề và tổng hợp đề’. Ở đây, tôi không muốn đi sâu vào vấn đề này, chỉ nêu ra như một trưng dẫn để nhắc nhở tác giả -muốn hiểu Hegel không thể không bước qua ‘Syllogism’ trong “Hiện Tượng Luận Về Tinh Thần”. Sự lòe bịp về tri thức và tự cho mình là một trong số ít người hiểu Hegel rốt ráo nhất, tôi gọi đó là “sơ-xảo-tính” thứ hai của “Tự Do và Đạo Lý”.

3. Sơ-xảo-tính trong lối áp đặt từ ngữ triết học:

Như tôi đã đề cập ở trên, ngôn ngữ chỉ là phương tiện để diễn đạt về ý niệm triết học và là phương-tiện-có-giới-hạn. Nếu lý trí là một hiện hữu thường hằng, thì lý trí có trước ngôn ngữ, và triết học chỉ xuất hiện khi lý trí đã được hệ thống hóa qua ngôn ngữ. ‘Sơ-tính’ (simplicity) của lý trí là nguyên ngôn –logos, nền tảng khải đạo của triết học Tây phương. Hegel là người đầu tiên đã đào sâu quá trình lý tính nội tại (nguyên ngôn của lịch sử triết học), nhưng ông không phải là người duy nhất.

Từ ngữ -tự nó không mang một ý nghĩa triết học, nếu nó là một áp đặt đi ra ngoài trí năng. Trong “Tự Do và Đạo Lý”, chúng ta bắt gặp đầu những áp đặt như vậy. Thí dụ, chữ “tính”. ‘Tính’ trong triết học mang một tính chất của ý niệm phổ quát. Không phải trong mọi trường hợp, sử dụng ‘tính’ là có thể biến thái khái niệm danh từ trở thành triết-ngữ. Thí dụ (ở trang 41), tác giả dùng đến 8 (tám) lần chữ ‘tính’ cho mỗi khái niệm như: ‘trừu tượng tính, đại thể tính, thường-bất-biến-tính, v.v… thực chất là sự phô trương về lối hành văn triết học. Triết lý là một nghệ thuật về cách đặt vấn đề, suy diễn và giải quyết vấn đề để chinh phục đối tượng khách thể, chứ không phải là làm cho nó khó hiểu. Trong khoảng hơn 600 trang sách, tác giả đã sử dụng hàng ngàn chữ ‘tính’ làm tiếp-hậu-từ, và lập đi lập lại các từ ngữ như: ‘năng động’ và ‘năng thức’ một cách rất vô nghĩa. Tôi thí dụ: “Từ năng thức của ý niệm tự do, ý lực bản ngã đi từ thường hằng, vô biệt, từ đại ngã chuyển hóa qua tiểu ngã thường phân…” (trang 40). Những ai chưa đọc nguyên bản “Philosophy of Right” trong Phần Một –Abstract Right, sẽ không hiểu tác giả muốn nói cái gì, mặc dầu đó chỉ là những khái niệm rất đơn sơ!

Về chữ “moment”, tác giả NHL đã dịch khi thì “thời quán” (đa số trường hợp, nhưng có khi dịch là “thời tính”). Thật ra, dùng “thời tính” chính xác hơn, nhưng có lẽ vì không muốn ‘mang tiếng’ là dùng từ ‘từ gốc’ của Hegel, nên muốn nói khác đi. Song, nếu tác giả dịch ‘moment’ là “thường quán”, sẽ làm người đọc hiểu lầm là tác giả muốn nói về khái niệm “moment of inertia”. Tôi xin nêu ra thí dụ: “Đối với cá thể thì cả hai phạm trù ý thức ( Đạo lý và Vị kỷ) cũng chỉ là thời quán mang bản chất trừu tượng” (trang 43). Về khái niệm “Universality”, tác giả đã dùng khi thì “nguyên thể tính, đại thể tính, thường-bất-biến-tính” (trang 197), có khi trở thành “nguyên thể khách quan” (trang 199). Có thể vì giới hạn của ngôn ngữ Việt trên mặt lý luận, nên mỗi trường hợp, người ta dịch một cách khác nhau. Nhưng, trong ‘trường hợp của tác giả NHL’ đã dùng không chính xác về khái niệm triết học.

Ở một chỗ khác, khái niệm “lý tính phổ quát” (‘universal rationality’) được tác giả sử dụng là “giá trị lý trí” trong câu văn : “…Hành động có ý thức là lấy giá trị lý trí làm căn bản” đã làm cho khái niệm cụm chữ trở nên rất tầm thường.

Trên đây là vài thí dụ phổ biến trong cách áp đặt từ ngữ qua khái niệm triết lấy từ Hegel nhan nhãn trong sách “Tự Do và Đạo Lý”. Trong dịp tới, tôi sẽ đọc lại và đào sâu từng chương một ( ** ).

4. Sơ-xảo-tính về sắp xếp nội dung trong “Tự Do và Đạo Lý”

Trong “Philosophy of Right của Hegel có ba phần chính (3 Parts), không kể Phần Dẫn Nhập (Introduction), Khai Bút (Preface), và Phần Bổ Sung (Addition).

--Phần đầu là Pháp Lý Trừu Tượng (Abstract Right), có ba phân đoạn bàn về Tài Sản, Khế Ước, Vi Phạm. Trong hai phân đoạn Tài Sản và Vi Phạm, Hegel còn chia ra các tiểu đoạn như: Chiếm hữu Tài sản, Gian lận, Hình sự v.v…

--Phần hai là Đạo Đức (Morality), có ba phân đoạn bàn về Tôn Chỉ và Trách nhiệm, Thiện Tính và Lương Tri..

--Phần ba là Đạo Lý Xã Hội (Ethical Life), có ba phân đoạn: Phân đoạn đầu bàn về Gia Đình và Giáo Dục Con Cái, Ly Dị… Phân đoạn hai về Xã Hội Dân Sự. Phân đoạn này chia ra ba tiểu đoạn bàn về Hệ thống, Tổ Chức Dân Sự, Tư Bản và Phân Chia Giai Cấp –Tư Pháp, Cảnh Sát, Tòa Án. Phân đoạn 3 có ba tiểu đoạn bàn về Hành Pháp (‘Crown’ –khác với Tổng Thống chế hay Chế độ Cộng Hòa Đại Nghị hiện nay!), Lập Pháp và Tư Pháp, về Chủ Quyền Quốc Gia, Công Pháp Quốc tế và Lịch Sử Thế Giới. Sau cùng là ‘Phụ chú’ cho toàn thể cuốn sách. Tổng kết ba phần có tất cả 360 đoạn văn (paragraphs) theo từng tiểu đề suy tư của Hegel.

Trong “Tự Do và Đạo Lý”, tác giả NHL chia cuốn sách của ông ra làm 7 phần (Phần A đến phần G, -phần G làm phụ chú). Trong 6 phần nội dung cơ bản có 24 Chương. Trong 24 Chương này, bao gồm 178 đoạn văn, cũng theo tiêu đề suy tư ‘tương tự’.

Nhìn chung, sự phân chia Phần và Chương của ‘hai’ cuốn sách (tôi dõi theo từng tiêu đề đoạn văn, người đọc có thể nhận ra tác giả Nguyễn hữu Liêm đã hoàn toàn dựa theo nội dung của Hegel. Tôi thí dụ: từ phần A đến B (‘Nền Tảng Pháp Triết. Đạo Lý Pháp Quyền’) đều dựa theo nội dung của Hegel trong Phần đầu (Abstract Right). Phần C (‘Đạo Lý Cá Nhân’) dựa theo Phần hai của Hegel (Morality). Từ Phần D tới Phần F (‘Đạo Lý Xã Hội, Đạo Lý Quốc Thể, Đạo Lý Hoàn Vũ) lại chính là Phần ba của hegel trong “Ethical Life”.

Chắc hẳn tác giả Nguyễn hữu Liêm hết sức tránh né sự ‘mang tiếng’ của sách của ông là một bản dịch từ “Philosophy of Right”. Sự tránh né ấy có thể mang một chủ đích “dễ cảm” của tác giả; bởi, hàm chất của một tác phẩm triết học chính trị là sự sáng tạo từ một công trình tư duy được hệ thống hóa, không phải là một bản dịch –“thậm chí” mượn tư duy của kẻ khác nhưng tìm cách che đậy. Bởi vậy, chữ “xảo” trong sơ-xảo-tính của tôi, mong quý độc giả chỉ nên hiểu đó chỉ là một ‘art of re-creation’ mà thôi. Tuy vậy, một sự che đậy như vậy vô tình rơi vào hai sai lầm nặng nề:

--Một, người đọc nếu vì tình cờ, khám phá từ nguyên bản của Hegel sẽ nghĩ rằng đây là một công trình “sao chụp” tư tưởng của kẻ khác, mặc dầu trong lời mở đầu tác giả đã rào đón là chỉ “mượn”. Như vậy, sự lương thiện trí thức sẽ bị thương tổn. Chẳng thà cứ viết dưới dưới hình thức một bản dịch, kèm theo phụ chú, diễn giải theo ý riêng, người đọc sẽ đón nhận với nhiều thiện cảm hơn. Dịch sát, và quan trọng nhất là dễ hiểu –để nhằm chuyển tải tư tưởng của triết gia trở thành một giá trị phổ quát nhằm soi sáng những “đầu óc ngu muội nhưng kiêu căng, tàn ác. Và, tất nhiên tác giả nên bỏ ít tâm sức tìm hiểu, điều nghiên hoàn thành một phụ chú đầy đủ, diễn giải sâu sắc, rỏ ràng cũng đủ làm cho người đọc, xa hơn nữa –những kẻ lãnh đạo cộng sản đần độn thấu hiểu Hegel và khâm phục tác giả!

--Hai, vì sự cố ý phân chia ‘khác đi’ của “Tự Do và Đạo Lý” về mặt hình thức đã vô tình tố cáo tác giả không nắm được nguyên lý tư tưởng Hegel qua sự ‘phân chia’. Sự phân chia tiết mục của Hegel mang ý nghĩa một hệ thống triết học suy nghiệm (system of speculative philosophy). Trong ba phần của “Philosophy of Right” và các phân đoạn, phân tiểu đoạn –sự thứ tự đều đi theo một quy luật biện chứng tư tưởng từ thấp lên cao: -sự chuyển hóa từ một ý niệm triết học này chuyển qua một ý niệm triết học khác đều có sự liên kết về tư tưởng. Tôi thí dụ: Nếu khởi đầu là một khái niệm về Pháp lý sẽ đi tới một giai đoạn cao hơn là Đạo đức Cá nhân; từ Đạo đức Cá nhân bước qua một giai đoạn cao hơn nữa là Đức lý Xã hội. Mặt khác, trong các Phân đoạn còn có ‘sự chuyển hóa về khái niệm’ (so transformed!). Tôi thí dụ: Chuyển hóa từ Tài Sản qua Khế Ước (transition from Property to Contract); chuyển hóa từ Gia đình qua Xã hội Dân sự (transition of the Family into Civil society); từ một Xã hội Dân sự tốt đẹp chuyển qua Nhà nước Pháp quyền với tổ chức chính quyền tuyệt hảo. Và, bằng tinh thần Đạo lý giữa các quốc gia (theo quan điểm Hegel), chúng ta sẽ có một thế giới lý tưởng (Ideal World). Sự phân chia của tác giả NHL, dù hình thức khác đi, nhưng lại ‘sao chụp’ hoàn toàn nội dung –là đánh mất hệ thống tư tưởng Hegel, đánh mất căn tính duy lý mà Hegel đã thiết đặt.

Tác giả NHL khó phủ nhận nhận xét nêu trên, vì tôi đọc từ đoạn văn 1 đến 178 của ông –không một khái niệm triết học nào đi ra ngoài 360 đoạn văn trong “Philosophy of Right” ngoại trừ những đoạn văn bàn về Việt Nam và một vài khái niệm của Lão Tử (nhưng hình như tác giả vẫn chưa hiểu được chữ ĐẠO của Lão gia).

Tuy mang một nội dung ‘sao chép’, rãi rác đôi nơi vẫn có sự suy tư riêng của tác giả. Song, có rất nhiều điểm tôi không đồng ý với tác giả. Tôi thí dụ: Tác giả viết “Thể tính của trật tự khách quan là Đạo Lý” (trang 275) [Tôi mở ngoặc: “thể tính” ở đây phải chăng là “Esssence”?] Đúng hay không, không thanh vấn đề nữa, điều tội hiểu là tác giả muốn nói tới một “trật tự khách quan” chính là trật tự xã hội. Vì vậy, một xã hội có trật tự là một xã hội có đạo lý! Điều đó có vẻ hợp lý, nhưng là một hợp lý “rational simplicity” (nhóm chữ này tôi đặt ra). Nếu một trật tự xã hội hiện hữu vì sự đe dọa, áp bức của chủ thể pháp lý (như, Đảng Cộng sản Việt Nam) trên đối tượng khách thể (Nhân dân Việt Nam) thì nó không còn là ‘Đạo Lý’ nữa. Trong trường hợp này, Đạo Lý chính là hành động đối kháng cụ thể của nhân dân chống lại chủ thể pháp lý (Đảng Cộng Sản). Nói cách khác, Đạo Lý đó chính là hành động phá đổ trật tự “Ngụy Thiện” hiện hữu để đạt tới một trật tự xã hội Chân-Thiện-tính. Vậy, phải nói “Thể tính của trật tự khách quan là Đạo Lý”, khi trật tự khách quan là ý lực tự do tuyệt đối của khách-thể-tính.

--Tác giả NHL và suy tưởng về Tôn giáo :

Trong tác phẩm “Triết Học Lịch Sử” (Philosophy of History), Hegel có mỗ xẻ và đề cập đến Tôn giáo trong Phần Một (Thế giới Đông phương) nói về Phật Giáo; Phần Ba (Thế Giới La mã) về Thiên Chúa Giáo. Nhưng, hegel đã trình bày về hai tôn giáo này một cách giản đơn. Về Thiên Chúa Giáo,Hegel viết “Chân lý của khách thể tuyệt đối là Tinh thần”, hoặc “Thượng Đế được nhìn nhận như một Tinh thần khi nó được hiểu như một Tam Vị Nhất Thể (Triunity). Nguyên tắc mới này là cái trục, ở đó lịch sử thế giới chuyển mình. Đó là đích và điểm khởi đầu của lịch sử.”

Về Phật Giáo, Hegel có đề cập đến Luân Hồi (Metempsychosis); về Sắc và Không –ông lý giải quá đơn điệu. Hiểu tôn giáo như vậy, nên trong “Philosophy of Right” (Phần Morality –phân đoạn ‘Good and Conscience’, Hegel viết: “Lương tri tôn giáo hoàn toàn không có trên trái đất này” (‘Religious conscience, however, does not belong to this sphere at all’). Có lẽ vì không ‘dám’ đi ra ngoài biên thùy của triết học Hegel, tác giả Nguyễn hữu Liêm đã nhìn về Phật Giáo như sau: “Khái niệm thực tại tính, trên căn bản biện chứng triết học Hegel, đòi hỏi hiện hữu thời tại, cũng như vĩnh cửu chỉ có bằng con đường qua thân xác và đời sống trần thế mà thôi. Vì vậy mà mệnh lệnh nghĩa vụ của các tôn giáo, khi chỉ ở thể tính trừu tượng, nhất là của Phật Giáo, không mang thực tại tính” (TD&ĐL, trang 228).

Ở một nơi khác, Nguyễn hữu Liêm viết: “Bản chất đặc thù duy chủ quan là tâm lý hãnh tiến mà Cơ Đốc giáo lên án khi nói rằng tội lỗi nặng nề nhất đối với Thượng đế là sự hãnh tiến về chính mình – hay Phật giáo kết án đối với những chúng sanh đầy ngã mạn” (sđd, đoạn 67, trang 243). Đây chính là tâm lý giản đơn trùng chụp khi tác giả được đọc những đoạn Hegel viết về tôn giáo -có nghĩa phê phán vì Hegel đã phê phán nó, phủ định vì Hegel phủ định, không phải là suy tư từ bản thân tác giả về triết học tôn giáo.

Dầu sao, công trình tim óc của “Tự Do và Đạo Lý” vẫn là điều đáng ca ngợi. Từ ‘vị thế’ của một luật sư (là nghề ‘trời’ sinh ra trên đất Mỹ để hốt tiền, có tiền rồi thì mon men vào cánh cửa quyền lực chính trị!), tác giả Nguyễn hữu Liêm lại sa vào lãnh vực triết học, vốn là lãnh vực thuần trí thức. Điều đó có nghĩa hoặc là tác giả đã thất bại cả hai lãnh vực nói trên, hoặc tác giả là người ‘rất lý tưởng’. Cái ‘lý tưởng’ này có lẽ xuất phát từ sự tha thiết gửi gắm về ‘quê hương đất nước’ –nơi sự tệ hại và đốn mạt của quyền lực chính trị là điều không thể chối cãi. Và, nó bi thảm đến độ tác giả phải than “Những kẻ có lý tưởng thì không có hoàn cảnh để phủ nhận thực tế tiêu cực” (trang 346) –ý tác giả nói đến những người cộng sản lý tưởng. Như vậy, ‘Tự Do và Đạo Lý’ có phải là phương thế để tạo ‘hoàn cảnh’ cho chính mình? Nếu đúng, chúng ta có thể hiểu ‘Tự Do và Đạo Lý’ –là một món quà tự nguyện tác giả dâng lên cho chủ thể pháp lý ở Hà Nội, và nếu nói theo Hegel, là một “món quà –mutum commodatum without interests”. Nếu tâm tư ‘dâng hiến’ là một thực tính chủ quan thì, chính tác giả đã biến lý tưởng thành ảo tưởng khó lường. Những kẻ ảo tưởng bao giờ cũng nhận lãnh cái giá của ‘đắng cay và bội bạc’!

Sau hết, như tôi đã thưa trước về động cơ viết bài này trong phần đầu, thực tâm của tôi vẫn là muốn học hỏi, mong chờ đón nhận những nhận xét, chỉ giáo của tất cả mọi người (kể cả tác giả) qua bài viết này.

nguyễn văn hóa
24/8/1994 - 29.9.2009

Vài phụ chú ghi thêm sáng ngày 30/9/2009: Tối hôm qua, vừa đánh máy xong thì đã khuya, tôi mệt, tôi đi ngủ ngay. Sáng hôm nay, thức dậy sớm, xin ghi thêm vài điều xét ra cần thiết:

(*) Tôi vốn là người thích Hegel, nên thường collect đủ các tác phẩm của Hegel. Trong hai tác phẩm: "The Philosophy of Right" và "The Philosophy of History" tôi sử dụng trong bài viết, sau mấy chục lần dọn nhà trong cuộc sống 'trần gian' của tôi -lần này tôi đã làm mất mấy tác phẩm đó. Chợt nhận ra, lúc viết (tháng 8 năm 1994), tôi đã sai sót khi quên ghi lại nguyên văn trích dẫn từ tác phẩm Hegel (đã được dịch từ Đức ngữ sang Anh ngữ). Tôi xin có một lời xin lỗi đến mọi người.
Cũng trong thời gian này, tôi đang sống trong sự "khổ đau", nhưng tinh thần rất mãnh liệt -điều đó đã giải thích dùm cho tôi, vì sao tôi đã viết bài này trong thời gian có 3 ngày (sau buổi chiều đi nghe ra mắt sách/ 21.8.1994 - 24.8.1994 -vừa viết vừa đọc lại hai tác phẩm 'khó nuốt' của Hegel và cuốn sách dày cộm "Tự Do và Đạo Lý" của ông Nguyễn hữu Liêm.

(**) Đây là lời "hứa" và tôi đã không giữ lời viết tiếp và viết thêm... về Hegel và mấy cuốn sách của tác giả Nguyễn hữu Liêm, nhưng rồi tôi đã không giữ lời... Tiện thể, xin được gởi một lời Xin Lỗi đến tất cả mọi người. --nguyễn văn hóa, 7 giờ sáng ngày 30.9.2009.