Search This Blog

Saturday, January 23, 2010

Giải quyết rốt ráo những áp bức tôn giáo như biến cố Bát Nhã của Tăng Ni Làng Mai ở Lâm Đồng, là phải giải quyết triệt để toàn bộ vấn đề xã hội.

Nguyễn Văn Hóa (Thường Đức)

Nhìn từ khía cạnh hiện-tượng-luận về xã hội chính trị ở Việt Nam hiện nay, người ta khó có thể định danh nó là một chế độ chính trị loại gì, dù trên danh nghĩa vẫn là một nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa. Cho nên, muốn “xía” vào nội bộ của nước CHXHCN VN không thể không đề cập tới vài điều về lý thuyết Cộng sản (Mác-Lê-Stalin-Mao). Trong bốn ông “tổ” Cộng sản đó, chỉ còn một nước Cộng sản vĩ đại duy nhất do Mao thành lập nên –cũng là người thầy muôn thuở của Hồ Chí Minh, mà hậu duệ của ông đang răm rắp đi theo có bước tiến chính trị đi tới, nhưng cũng có những bước thụ lùi rất xa. Đó là kỹ thuật đối đầu với “mâu thuẫn xã hội” do chính họ tạo ra.

Như xuyên suốt một sợi chỉ, triết học Mác cho rằng luật thống nhất của đối lập là luật nền tảng của vũ trụ. Trong mọi mâu thuẫn luôn có hai mặt đối lập: thống nhất và đấu tranh, mà mâu thuẫn “đấu tranh” thúc đẩy sự việc chuyển động và thay đổi. Để làm rõ về khái niệm mâu thuẫn "có" đấu tranh, Mao diễn giải như sau:

“Mâu thuẫn hiện hữu khắp mọi nơi, nhưng nó có sự khác biệt tùy theo nguồn gốc và sự việc. Trong bất cứ một hiện tượng và sự việc nào, đối lập thống nhất có điều kiện, tạm thời và ngắn hạn, nên chỉ là đối lập tương đối; trong khi đấu tranh đối lập có tính tuyệt đối. Lê-nin đã giải thích rõ ràng về luật này. Trong quốc gia chúng ta (tức là Tàu), gia tăng một số người hiểu về nó. Tuy vậy, trong số đó, có người chấp nhận luật này là một chuyện, nhưng việc áp dụng để thi triển vấn đề là chuyện khác. Rất nhiều người không dám công khai thú nhận có nhiều mâu thuẫn hiện diện giữa xã hội trong nước ta, mặc dù những mâu thuẫn cực kỳ này nó đẩy xã hội chúng ta đi tới. Nhiều người cũng không dám thú nhận rằng mâu thuẫn vẫn còn tiếp diễn trong xã hội xã-hội-chủ-nghĩa, và kết quả thế là người ta đã què quặt và thụ động để đối đầu với những mâu thuẫn xã hội; người ta không hiểu rằng xã hội xã-hội-chủ-nghĩa sẽ gia tăng sự nhất thống và củng cố xuyên qua tiến trình không ngừng nghỉ để đối phó và giải quyết những mâu thuẫn. Vì lẽ đó, chúng ta cần phải giải thích cho nhân dân, và các đồng chí của chúng ta trước hết, nhằm giúp họ hiểu những mâu thuẫn trong xã hội xã-hội-chủ-nghĩa, học tập và sử dụng phương pháp đúng vào việc đối phó với những mâu thuẫn này.” (Mao Tse Tung, Four essays on philosophy MFE.91, Peking 1966. On the correct handling of contradictions among the people, tháng 2, 1957.) [1]

Thế nhưng, trong chiến tranh giữa Việt Cộng và Trung Cộng năm 1979, mặc dù Việt Cộng (Việt Cộng = chế độ Việt Nam dưới danh nghĩa còn tôn thờ chủ nghĩa Cộng Sản) đã nói đích danh “Trung quốc là kẻ thù nguy hiểm” –thì đó chỉ là nội thù, một mối thù huyết thống, cho nên CHXHCN Việt Nam đã không dám khuyếch đại mối thù đó thành một nhánh tuyên truyền trong người dân Việt, và cũng bởi nó không nằm trong phạm trù cặp mâu thuẫn đối lập của lý thuyết Cộng sản, nên với thời gian, “kẻ thù” đã được hai chế độ vô hiệu hóa. Và từ đó, Vatican trở thành một “con ngáo ộp” được hình tượng và lý thuyết hóa thành một “kẻ thù” hiện thực trong mâu thuẫn đối lập tuyệt đối, mà “tam đại Việt gian Ngô đình, Cần lao Công giáo, Việt gian tay sai…” của quá khứ nửa thế kỷ chỉ là biểu kiến nối kết với thể nhất thống “Kẻ thù” đối lập tuyệt đối với chế độ Việt Cộng. Tất nhiên, những ai không quan niệm, không đồng lòng, không cùng lên án “kẻ thù” đó, có nghĩa là đang đứng trong vế “mâu thuẫn đối lập” với chế độ -và, hiểu theo như “phương pháp đúng” của Mao Trạch Đông –những mâu thuẫn tương đối này phải bị triệt tiêu trước khi họ (CS) có đủ năng lực để tiêu diệt “đối lập tuyệt đối” nhằm đi tới con đường thiết lập một xã hội xã-hội-chủ-nghĩa không còn mâu thuẫn đối lập nào tồn tại (viễn tượng xảy ra vào các năm 2090, 2100...chẳng hạn)

Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (đứng đầu hiện nay là Thầy Quảng Độ) và Giáo phái Làng Mai (của Sư Nhất Hạnh) là hai thí dụ cụ thể nhất cho những “mâu thuẫn tương đối” mà chế độ Cộng sản VN muốn đập tan trước khi có sự chuyển hóa giữa “kẻ thù thực” và “kẻ thù giả định” (tạm gọi là fake enenmy).

Nhìn vào trọng tâm lý thuyết và hành động của chế độ Cộng sản VN, chúng ta sẽ hiểu lý do tại sao có những cánh tay nối dài của chế độ đã ví von ủng hộ chuyến về nước của Thiền sư Nhất Hạnh vào đầu năm 2005. Hãy cầm lên cuốn “Võ Văn Ái – Con nội trùng của Phật Giáo Việt Nam”, đọc những lời “giáo đầu” được ‘giao phó’ cho một tín đồ Thiên Chúa Giáo viết như sau,

Phật giáo là một tôn giáo lớn tại Việt Nam. “Lớn” không phải chỉ vì Phật giáo đã được du nhập lâu đời vào nước ta, hoặc vì số lượng tín đồ đông đảo, mà còn vì Phật giáo đóng góp rất tích cực và sâu rộng vào học thuật, văn hóa, đạo đức và đời sống tâm linh của dân tộc Việt Nam. Cho nên, ta có thể nói rằng mỗi sự cố xảy ra có liên quan đến Phật giáo, dù lớn hay nhỏ, thì đều có tác dụng đến Việt Nam. Và đều cần được theo dỏi quan tâm một cách cẩn trọng.
Đông Dương Thời Báo và trang nhà điện tử http://dongduongthoibao.com là hai diễn đàn thông tin và bình luận của người Việt tại hải ngoại, chuyên thẳng thắn phân tích (và trình bày quan điểm của mình cũng như của thân hữu) về những vấn đề của cộng đồng người Việt và của đất nước, đặc biệt những vấn đề Lịch sử tôn giáo và Hoạt động tôn giáo là những lãnh vực nhiều người thường tránh né, ít muốn đề cập đến. Tuy Ban Chủ trương hầu hết là tín hữu Công giáo tiến bộ cởi mở nhưng trên hai diễn đàn nầy, chúng tôi cũng đã nhiều lần cho đăng tải các nghiên cứu về các tôn giáo khác nhau, nhất là về Phật giáo mà chúng tôi đặc biệt quan tâm như đã nói ở trên.
Trong bốn tháng gần đây, từ cuối năm 2004 đến đầu năm 2005, chuyến về Việt Nam của nhà sư Thích Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai đã gây nhiều thảo luận sôi nổi trên các phương tiện truyền thông của cộng đồng Việt Nam hải ngoại, nhất là trên các trang nhà thuộc mạng lưới internet toàn cầu. Trong số những thảo luận đó, chúng tôi thấy đặc biệt nhất là những thông tin và phê phán của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế (do ông Võ Văn Ái là Giám đốc) thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Hải ngoại. Sau đó là một loạt hồi ứng của các giáo hữu Phật tử từ Việt Nam đến Paris, từ Mỹ châu đến Úc châu, về những thông tin, những phê phán mà Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã phổ biến qua các Thông cáo báo chí.
Nhận thấy rằng sự cố nầy đã vượt ra khỏi khuôn khổ của Giáo hội Phật Giáo và có thể trở thành một tiền lệ mẩu cho những sinh hoạt truyền thống khác của cộng đồng, Đông Dương Thời Báo quyết định thu thập các tài liệu nầy và trình bày lại dưới dạng một hồ sơ tổng hợp để rộng đường dư luận, và để lưu trữ cho các nhà nghiên cứu sau nầy.
…………………………………………Giu-se Phạm Hữu Tạo, Đông Dương Thời Báo.”
[2]


Xét về tính cách viết lách, trên đây là những dòng chữ tương đối “khéo léo” che đậy hành vi của mình để khỏi mang tiếng là một tín đồ Thiên Chúa Giáo nhưng lại “xía vô” chuyện tôn giáo khác; tuy vậy, cái khéo ấy không đủ che đậy thái độ trịch thượng của một kẻ đứng lên trên các tôn giáo để “xét định” thái độ và hành vi nào giữa “hai phía mâu thuẫn” trong một tôn giáo là kẻ đáng bênh vực, đáng tán thưởng. Đó là thái độ “mượn hơi” của quyền lực chính trị (chủ tể), ai cũng nhìn ra. Từ đó, người ta cũng nhận ra điều khác, là những người dưới danh nghĩa Phật tử chấp nhận cho một tín đồ Thiên Chúa giáo viết “giáo đầu”, ủng hộ Thầy Nhất Hạnh (lưu ý: ủng hộ tạm thời nhưng còn chờ xem, còn thẩm định những diễn tiến…trong tương lai nữa), chỉ trích Võ Văn Ái… chỉ là một hình thức “tay sai trung gian”, và như thế “trọng lượng” còn yếu kém hơn “tay sai trực tiếp” (tín đồ TCG) một nấc thang!

Từ sự lên tiếng ủng hộ rất “kẻ cả” đến thái độ rút lui trong sự im lặng hiện nay của nhóm liên-tôn Lương-Giáo nầy (Đông Dương Thời báo và Từ Thiện Giao Điểm v.v…) trước những sự biến đàn áp Tăng Ni Làng Mai-Bát Nhã ở Lâm Đồng trong thời gian qua (và, tệ hơn nữa còn phụ họa với chế độ để mỉa mai "Linh Mục Sư Nhất Hạnh") , càng chứng minh hùng hồn thái độ và những dòng chữ trịch thượng của một “tín đồ Công giáo”, càng dễ lật tẩy cơ chế chính trị Việt Nam hiện nay là một hậu thân của Cộng sản Mao Trạch Đông, từ sau thời gian nắm chính quyền cho tới chiến dịch đẫm máu “Cách mạng Văn hóa” trên đất Trung Hoa.

Hậu quả từ những “ngôn ngữ thương yêu, miệng mỉm cười, tâm tỉnh lặng…”, Sư Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai…đã bị “bán đứng” cho “chế độ Mao-hóa” không thương tiếc. Nói cách khác, một sự “bán đứng” rẻ mạt và vô liêm sỉ, để ngày hôm nay họ -những kẻ tu hành, đã lãnh những đòn thù từ chế độ như hình ảnh sau:

“Tin tức công an giả danh Phật tử đánh đấm người tu, bóp béo phần kín của tu sĩ được thông tấn quốc tế loan truyền rộng rãi.

Trên thế gian này không bao giờ có thứ "Phật tử" chửi thầy, nhục mạ thầy, bóp phần kín của qúy thầy, nhổ nước miếng trên đầu thầy khi đang tụng kinh, đập phá chùa chiền, ném liệng kinh sách.” (Trích: Tấm gương phản chiếu | của Huyền Lam, link to web Phù Sa) [3]

Hẳn Huyền Lam của “tấm gương phản chiếu” là một nam/nữ Phật tử phải “nuốt hờn” lắm mới có thể viết ra những hàng chữ đầy nhũng nhiểu thế tục của những hành vi Cộng sản ngụy trang du côn-ăn cướp đó –mà, nếu những anh-hùng-văn-hóa-Hồ-Chí-Minh có đủ tiềm năng bệnh hoạn “bóp béo phần kín của tu sĩ” thì đâu cần phân biệt “phần kín” ấy là “Thằng Ku” hay “Cái Hĩm.” Liệu những “thằng Ku” và “cái Hĩm” tu sĩ nầy sẽ gây nhiều tăng kích dục thú vị cho những công an văn hóa hơn là những “cái L…” nằm giữa những cặp chân dài –một biểu tượng văn minh thẩm mỹ và phát triển kinh tế vật chất tràn đầy xã hội của Đảng Kụ Hồ?

Những sự kiện cười ra nước mắt ấy, không thể là “vấn đề nội bộ của Phật giáo”, cũng như hơn bốn năm về trước, chuyến trở về nước của Sư Nhất Hạnh không thể là “một tiền lệ mẩu cho những sinh hoạt truyền thông khác của cộng đồng.”! Chỉ có thủ thuật của Cộng sản Mao Trạch Đông mới có thể đối phó với con người, với những đồng chủng một cách thô bạo…(đến dường ấy) khi không có đủ những điều kiện-hoàn cảnh cụ thể nào để giết chết những “thứ mâu thuẫn tương đối” nầy thôi.

Không phải chỉ có Phật tử Huyền Lam mới "may mắn" chứng kiến cảnh trấn áp những kẻ tu hành ngàn năm một thuở đó, đến cả ông Brad Adams, Giám Đốc Á Châu của Nhóm Giám Sát Nhân Quyền đã hết sức sững sốt khi thấy Việt Nam đã dám dùng đến những nhóm người Công an bạo động ăn mặc theo lối thường dân để hăm dọa và phá rối cuộc điều tra của Phái Đoàn Âu Châu, không cho Phái Đoàn này gặp được những vị tu sĩ kia. (dẫn theo bài viết trên, Huyền Lam...)

Nhưng điều đáng nói hơn nữa là ông Nguyễn Trung Nguyên –luật gia, là một người được đào tạo về chuyên môn luật pháp từ nền giáo dục Xã hội Chủ nghĩa VN cũng phải lên tiếng. Học trình Luật của nước CHXHCNVN trong 4 năm, theo chúng tôi tìm hiểu (về curriculum) có gần đến 1/5 thời gian là học về triết học Mác-Lê, phần còn lại là trang bị những kiến thức luật hiến pháp, luật hình sự tố tụng v.v… nói chung là một nội dung luật pháp của chế độ CS, thế mà ông đã nhìn nhận rằng:

“Trong khi đó, những cáo buộc cho rằng nhà nước, đặc biệt là ngành an ninh, ngành công an tôn giáo và ban tôn giáo chính phủ có liên quan trực tiếp đến những mâu thuẫn trong vụ việc này càng ngày càng mạnh và càng thuyết phục.”

Và, một luật sư đồng nghiệp khác của ông Nguyên --Luật sư Phạm Như Hưng trong tâm thư gửi Ngài Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cũng nhấn mạnh rằng những tăng ni này hoàn toàn không vi phạm bất cứ một điều khoản nào trong hệ thống luật pháp nước ta. Nhưng quan trọng hơn cả đó là, vấn đề này đã không những gây ra nhiều quan tâm và bức xúc ở dư luận trong nước mà còn tạo nên nhiều tai tiếng và chỉ trích từ dư luận quốc tế.”
Với tinh thần đồng lòng đó, họ thề nguyện sẽ:

“Những đồng nghiệp của tôi trong lĩnh vực luật pháp quốc tế cho biết họ không những sẵn sàng đứng ra bào chữa cho các tăng ni này mà các Luật sư đoàn quốc tế cũng sẵn sàng nhân danh thân hữu của những tăng ni này để khởi kiện Chính phủ Việt Nam lên Tòa Án Quốc Tế The Hague về những tội ác trên.” [bấm lên đoạn văn để đọc bài trên web Phù Sa]

Đó là một hiện tượng đặc biệt của những luật sư tốt nghiệp từ trong nước hiện nay. Chính lương tâm của con người, tư duy "Luật đúng nghĩa" vượt lên trên những hạn hẹp và thiển cận của nền giáo dục ngành Luật và nội dung của Luật pháp XHCN, họ đã hành động đúng chức năng của những kẻ bảo vệ cho “cán cân Công Lý” thông thường trên thế giới.

Bình tỉnh để nhìn vào những thảm trạng của “dân đen”, sự áp bức các tôn giáo… ta đang thấy một dòng lũ thời đại, một cơn đại "triều cường" bất thường… đang trào dâng, hoàn toàn mâu thuẫn với triết lý cách mạng của Mao Trạch Đông, đó là yếu tố quần chúng (hay nói theo Cộng sản là: Nhân Dân).
Mao viết về “nhân dân”:

“Trong tất cả công tác thực tiễn của Đảng ta, mọi lãnh đạo đúng đắn cần thiết là, ‘từ nhân dân và, đến với nhân dân’. Có nghĩa là: Lấy mọi ý kiến của nhân dân (cả vụn vặt lẫn thiếu hệ thống), tập trung nó lại (xuyên qua điều nghiên biến nó thành ý tưởng có hệ thống), rồi trở lại với nhân dân –gieo mầm và giải thích những ý tưởng đó cho tới khi nào, nhân dân sẽ ôm lấy tư tưởng đó như là của chính họ, nhanh chóng kềm giữ nó để chuyển biến thành hành động, rồi thử nghiệm và sửa sai tư tưởng đó lần nữa trong khi hành động…” (Mao selected Works 3.119, The Chinese revolution and the Chinese Communist Party. 12/1939 ) [4]

Thế thì, từ quan điểm “từ (from) nhân dân và, đến với (to) nhân dân” để đưa tới sự giáo huấn và điều khiển nhân dân đó, cuối cùng để làm gì? Mao lý luận tiếp,
“…Để thay đổi một thế giới khách quan, nó bao gồm các phần tử đối nghịch của sự đổi thay, bất cứ ai –để được đổi thay, phải bước qua thời kỳ bị áp bức trước khi chúng bước vào thời kỳ thay đổi tự nguyện và có ý thức. Kỷ nguyên của thế giới cộng sản gần kề khi nhân loại ý thức tự nguyện đổi thay cho chính nó và cho thế giới.”
(Mao selected Works 1.308, The Chinese revolution and the Chinese Communist Party. 12/1939) [5]

Nhưng hôm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam không còn có khả năng thực hiện ý chí của Mao trạch Đông được nữa vì, toàn thể nhân dân Việt Nam đã ý thức đi trước Đảng, đã biết cái biết trước Đảng, hiểu trước Đảng…cho nên Đảng chỉ còn là một bộ phận ù lỳ rất nhỏ trong xã hội, dù cho bộ phận nhỏ ấy là một tập hợp của những kẻ buôn dân bán nước, giàu sụ-phè phỡn-kiêu sa-lộng lẫy. Một “phường khố lụa thắt lưng” tân thời. [6] Đành rằng, hơn tám mươi triệu dân đang chịu làm “kiếp hồng nhan” bạc phận, nhưng chỉ cần một ý thức tự nguyện cuối cùng là hãy cùng nhau đoàn kết đứng dậy –giật lấy cái “dãi lụa thắt lưng” ấy để treo cổ Đảng Cộng sản Việt Nam trước tiếng vỗ tay reo hò vang trời của toàn thế giới.
Nguyễ Văn Hóa (Thường Đức)

Monday, December 14, 2009
Vài chú thích :
________________________________________

[1] “Contradiction exists everywhere, but they differ in accordance with the different nature of different things. In any given phenomenon or thing, the unity of opposites is conditional, temporary and transitory, and hence relative, whereas the struggle of opposites is absolute. Lenin gave a very clear exposition of this law. In our country, a growing number of people have come to understand it. For many people, however, acceptance of this law is one thing, and its application in examining and dealing with problems is quite another. Many dare not openly admit that contradictions still exist among the people of our country, although it is these very contradictions that are pushing our society forward. Many do not dare amit that contradictions continue to exist in a socialist society, with the result that they are handicapped and passive when confronted with social contradictions; they do not understand that socialist society will grow more united and consolidated through the ceaseless process of the correct handling and resolving of contradictions. For this reason, we need to explain things to our people, and to our cadres in the first place, in order to help them understand the contradictions in a socialist society and learn to use correct methods for handling these contradictions. (Mao Four Essays 91.)

[2] Võ Văn Ái – Con nội trùng của Phật Giáo Việt Nam, 10 tác giả viết, Đông Dương TB. xuất bản, Phạm Hữu Tạo viết lời dẫn, Texas-USA 2005.

[3] Chúng tôi thiết tưởng đây là hành vi bệnh hoạn, mang tính bạo dâm (sexual masochism), mà nạn nhân không chỉ là tu sĩ nam; tuy nhiên, vì là vấn đề tế nhị nên tác giả đã không muốn nói thêm chi tiết. Đây là một trường hợp “sexual harrasment” rất nghiêm trọng, vì nạn nhân là tu sĩ. Chúng tôi đề nghị Cộng đồng Phật Giáo hải ngoại nên dẹp bỏ những sự khác biệt nhỏ, để cùng hổ trợ Tăng thân Làng Mai nêu vấn đề này ra trước diễn đàn quốc tế.

[4] In all the practical work of our Party, all correct leadership is necessarily ‘from the masses, to the masses’. This means: Take the ideas of the masses (scattered and unsystematic ideas) and concentrate them (through study turn them into concentrated and systemic ideas), then go back to the masses and propagate and explain these ideas, until the masses embrace them as their own, hold fast to them and translate them into action, and test the correctness of these ideas in such action… (Mao Selected Works, 3.119)

[5] …And the objective world which is to be changed also includes all the opponents of change, who, in order to be changed, must go through a stage of compulsion before they can enter the stage of voluntary , consciously change. The epoch of world communism will be reached when all mankind voluntarily and consciously changes itself and the world. (Mao selected Works, 1.308)

[6] “Phường khố lụa”: Theo tục truyền ở nước ta, vào cuối thế kỷ 18, đầu 19 đàn ông còn mặc áo có dây thắt lưng. Người giàu dùng dây thắt lưng bằng lụa, người nghèo dùng dây thắt lưng bằng vãi. “Phường khố lụa” để chỉ một bọn người giàu sang, ăn chơi, đàng điếm… Hôm nay, Đảng CSVN có đám cán bộ cao cấp từ trung ương cho đến đại biểu quốc hội, mỗi lần xuất hiện trước đám đông, nhà báo…(để chụp hình, ti toe trả lời phỏng vấn), mỗi người đeo trên ve áo veste một buckle có hình cờ đỏ sao vàng, cũng rất giống “phường khố lụa” vài thế kỷ trước. Tú Xương có hai câu thơ để miêu tả về “phường khố lụa”: Nào có ra gì phường khố lụa; Thôi thì cũng tủi kiếp hồng nhan.

No comments: